Sản phẩm bán ra có mã QR truy xuất nguồn gốc, được bán trong nước và xuất khẩu nhờ vào số hoá nông nghiệp mà người nông dân không còn phải lo kêu gọi “giải cứu”.
Theo báo cáo tổng quan của Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam (VIDA), lộ trình hướng tới nông nghiệp số vào năm 2030.
Không có tiềm năng phát triển nông nghiệp như ở Việt Nam, nhưng nhờ ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, một người nông dân Nhật trung bình xuất khẩu nông sản thu được 40.000 USD năm 2019, trong khi Việt Nam là 1.000 USD.
Chuyển đổi số sẽ kết nối người tiêu dùng nông sản với các hộ nông dân, để cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn khi cây lớn, ra hoa, kết trái và hưởng thụ sản phẩm. Đó là một thị trường đẳng cấp và sẽ xuất hiện trong tương lai.
Những ngày này, chị Vân Hương ngồi ở Hà Nội cũng có thể chọn mua được loại gạo dâu ngon bậc nhất Lai Châu, hay món thịt lợn ba chỉ gác bếp là sản phẩm OCOP 3 sao nổi tiếng của Bắc Kạn trên sàn thương mại điện tử.
Sản xuất nông nghiệp giờ không thể trông trời, trông đất, trông mưa,... mà phải trông vào dữ liệu. Thế nên, 9 triệu hộ nông dân phải cùng số hoá làm cuộc “đại thay đổi” trên 7 triệu mảnh ruộng, dựng kho dữ liệu để tiến lên làm ăn lớn.
Bắc Giang vừa qua có vụ vải thiều với sản lượng lớn nhất từ trước tới này, doanh thu lên tới gần 7.000 tỷ đồng. Có được thắng lợi này, theo ông Phan Thế Tuấn, là nhờ chuyển đổi số từ sản xuất cho tới tiêu thụ.
Năm trước, doanh thu của vải thiều của tỉnh Hải Dương chỉ khoảng 600 tỷ đồng. Nhưng năm nay quả vải thiều bán trên các sản thương mại điện tử, hình ảnh sản phẩm được quảng bá rộng khắp, nông dân thu ngay 1.400 tỷ đồng.
Đã có nền tảng thì cần kế thừa, cần quyết tâm đặt ra mục tiêu xuất khẩu năm 2022 vượt trên 50 tỷ USD, đừng quá khiêm tốn. Trụ đỡ mà thụt lùi thì đất nước thụt lùi.
Sau hai lần sang Nhật Bản và Israel, tận thấy mô hình làm nông nghiệp hiện đại, anh Tân quyết định làm nông dân mới. Thời điểm thiếu vốn, anh quyết định bán tất cả, từ nhà đến ô tô,... quyết "chơi một trận lớn" với nông nghiệp.