Bộ GTVT đã có báo cáo gửi Quốc hội về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp lần này.
Theo Bộ GTVT hiện có 5 dự án đường sắt đô thị bị chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư.
Các dự án này bao gồm: Dự án đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, tuyến số 1 Bến Thành - Suối Tiên và Dự án đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, tuyến số 2 Bến Thành - Tham Lương do UBND TP. Hồ Chí Minh làm chủ đầu tư.
Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 3 Nhổn - Ga Hà Nội do UBND TP. Hà Nội làm chủ đầu tư.
Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến Cát Linh - Hà Đông, Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 1 Yên Viên - Ngọc Hồi do Bộ GTVT làm chủ đầu tư.
Đối với 2 dự án đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh, tuyến số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tuyến số 2 Bến Thành - Tham Lương, Bộ cho biết tuyến số 1 giá trị sản lượng đạt 63,91%, hiện đang thanh toán từ vốn tạm ứng ngân sách thành phố 2.158 tỷ đồng trong khi chờ hoàn tất thủ tục điều chỉnh dự án.
Tuyến số 2 có 9 gói thầu, trong đó Gói thầu CP1 đang nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng; các gói thầu còn lại đang triển khai công tác lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên chưa thể triển khai do đang vướng mắc về việc điều chỉnh dự án và nguồn vốn cho dự án.
Đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 3 Nhổn - Ga Hà Nội đến thời điểm hiện tại, tổng tiến độ dự án mới chỉ đạt trên 49% và dự kiến kéo dài đến cuối năm 2022. UBND TP. Hà Nội đã có văn bản báo cáo Thủ tướng duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.
Với đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 1 Yên Viên - Ngọc Hồi, đơn vị tư vấn đang hoàn thiện hồ sơ gói thầu cập nhật thiết kế kỹ thuật, dự toán, hồ sơ mời thầu của gói thầu chuẩn bị mặt bằng và xử lý nền đất yếu khu Tổ hợp Ngọc Hồi và thực hiện thanh quyết toán Hợp đồng Tư vấn giám sát khảo sát.
Đường sắt đô thị Hà Nội tuyến Cát Linh - Hà Đông đã hoàn thành 99% khối lượng xây lắp, riêng vật tư, thiết bị đã chuyển về đến công trường đạt khoảng 99% và lắp đặt đạt 90% khối lượng thiết bị. Dự án đang vận hành, căn chỉnh toàn hệ thống để đưa vào khai thác thương mại trong năm 2019.
Tuy nhiên, Bộ GTVT cho biết dự án vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết và có nguy cơ kéo dài do tổng thầu EPC triển khai thực hiện công việc chưa theo đúng cam kết.
Dự án Cát Linh – Hà Đông tính đến nay đã trễ hẹn 10 lần với người dân Thủ đô. Theo báo cáo gửi Quốc hội, dự án này được Bộ GTVT phê duyệt năm 2009 với tổng mức đầu tư là 552,86 triệu USD (khoảng 8.770 tỷ đồng) và phê duyệt điều chỉnh năm 2016 với tổng mức đầu tư là 868,04 triệu USD (khoảng 18.002 tỷ đồng) từ nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Trung Quốc và vốn đối ứng trong nước.
Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng cho phép gia hạn thời gian thực hiện dự án với tiến độ hoàn thành giai đoạn thực hiện dự án trong quý IV/2018 với thời gian vận hành, chạy thử và thực hiện các công việc khác từ 3 - 6 tháng. Nhưng đến nay dự án vẫn chưa được khai thác.
Nguyên nhân được Bộ đưa ra là dự án có quy mô, tổng mức đầu tư lớn, có tính chất kỹ thuật phức tạp, công nghệ mới lần đầu được triển khai ở Việt Nam. Nhiều hạng mục chưa có trong quy trình trong nước, phải vận dụng, sử dụng quy trình, công nghệ của Trung Quốc.
Công tác giải phóng mặt bằng theo Bộ GTVT cũng gặp nhiều khó khăn. Bộ cũng cho biết do quá trình chuẩn bị dài, khiến cho dự án gặp những biến động về giá cả nguyên nhiên liệu, chính sách tiền lương, tỷ giá...
"Đặc biệt dự án trải qua 2 đợt nền kinh tế Việt Nam bị làm phát cao, trong đó năm 2008 - CPI 19,9%; giai đoạn 2010 - 2011 CPI lần lượt là 11,8% và 18,13%. Tổng tỷ lệ lạm phát của riêng 3 năm này là 49,83%", báo cáo Bộ GTVT cho biết.
Mặt khác, Bộ GTVT cho rằng đây là dự án đường sắt đô thị đầu tiên áp dụng hình thức Hợp đồng EPC nhưng quy định về hợp đồng này chưa đầy đủ nên việc áp dụng khó khăn, lúng túng, đặc biệt là quy định về tính trọn gói giữa các yếu tố kỹ thuật và tài chính, quá trình thực hiện phụ thuộc nhiều vào Tổng thầu.
Trong khi đó, báo cáo của Bộ GTVT nhận định: tổng thầu Trung Quốc chưa phải là đơn vị chuyên nghiệp, không có đầy đủ kinh nghiệm trong triển khai thực hiện dự án tổng thể bao gồm cả xây lắp, thông tin tín hiệu và đào tạo vận hành đồng bộ dẫn đến công tác quản lý điều hành của Tổng thầu còn nhiều lúng túng và bất cập.