Theo ông Nguyễn Xuân Định, Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính, thách thức đặt ra cho công tác quản lý, điều hành giá năm 2023 là rất lớn trong bối cảnh thế giới vẫn còn nhiều biến động khó lường. Kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng chậm lại, lạm phát cao tiếp tục kéo dài và khả năng suy thoái kinh tế ngày càng rõ nét hơn, nhất là tại các nền kinh tế lớn, làm gia tăng rủi ro bất ổn về chính trị, xã hội tại một số quốc gia; cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước trên thế giới vẫn đang diễn ra căng thẳng; thị trường tài chính, tiền tệ của các nước đang phát triển đối mặt với nhiều rủi ro; an ninh năng lượng, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bão lũ, hạn hán…
“Kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu nên sẽ phải đối mặt với nguy cơ nhập khẩu lạm phát trước xu hướng tăng giá các mặt hàng nguyên vật liệu, các mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới, rủi ro về tỷ giá. Cùng với đó là áp lực từ việc thực hiện lộ trình giá thị trường một số mặt hàng Nhà nước quản lý đã bị lùi thực hiện trong thời gian qua cũng sẽ đặt ra các thách thức cho công tác điều hành giá. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ, kích thích kinh tế cũng sẽ có tác động nhất định lên mặt bằng giá cả”, ông Nguyễn Xuân Định lo ngại.
Kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu nên sẽ phải đối mặt với nguy cơ nhập khẩu lạm phát. (Ảnh minh họa: KT)
Đại diện Cục Quản lý giá cho rằng, thời gian tới, công tác quản lý, điều hành giá cần tiếp tục thực hiện một cách chủ động và linh hoạt đảm bảo kiểm soát lạm phát theo mục tiêu 4,5% do Quốc hội đề ra.
“Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm tổ chức, theo dõi diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thuộc lĩnh vực quản lý để có biện pháp điều hành phù hợp. Chủ động tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh để chuẩn bị nguồn hàng dự trữ, bình ổn giá thị trường dịp Tết Nguyên đán 2023, nhất là mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, lương thực, thức phẩm…”, ông Nguyễn Xuân Định nêu rõ.
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế tài chính cho rằng, áp lực lạm phát tại Việt Nam trong năm 2023 sẽ không quá lớn, do Ngân hàng Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng ở nửa cuối năm 2022 và mặt bằng lãi suất tăng đã góp phần kiềm chế lạm phát.
TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế tài chính
“Từ cuối năm 2021 đến cuối năm 2022, VND giảm giá khoảng 3,7% so với USD vào cuối năm 2022. Đây là mức mất giá không quá lớn, không ảnh hưởng quá mạnh tới lạm phát thời gian tới. Bên cạnh đó, nguy cơ suy thoái toàn cầu đang gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ tại nước phát triển. Nguy cơ suy thoái toàn cầu sẽ tạo áp lực giảm giá hàng hoá cơ bản trên thế giới”, ông Độ nhận định.
Do đó, TS. Độ dự báo, thời gian tới, lạm phát so với cùng kỳ tại Việt Nam sẽ có xu hướng giảm dần sau khi đạt đỉnh vào tháng 1/2023 nhờ chính sách tiền tệ thận trọng của NHNN trong năm 2022, cũng như nguy cơ kinh tế thế giới rơi vào suy thoái.
“Tốc độ tăng CPI trung bình hàng tháng trong năm 2023 sẽ giảm đáng kể so với năm 2022. Lạm phát so với cùng kỳ có khả năng sẽ đạt đỉnh vào tháng 1/2023 và sau đó giảm dần về mức 3% vào cuối năm 2023. Lạm phát trung bình trong năm 2023 sẽ nằm trong khoảng 3-4%, hay nói các khác là xoay quanh mức 3,5-4%”, TS. Nguyễn Đức Độ dự báo.
TS. Đinh Trọng Thịnh, giảng viên Học viện Tài chính đưa ra 2 kịch bản cho kinh tế năm 2023. Ở kịch bản thứ 1, nếu tình hình kinh tế - xã hội của thế giới vẫn diễn biến phức tạp, lạm phát vẫn cao, giá xăng dầu, nguyên vật liệu tăng cao, kinh tế thế giới trì trệ hay suy thoái, tăng trưởng chậm, thương mại quốc tế giảm sút, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 6,2-6,7% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,3 – 3,7%.
TS. Đinh Trọng Thịnh, giảng viên Học viện Tài chính
Ở kịch bản 2, nếu tính hình kinh tế - xã hội của thế giới phục hồi tốt, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, Quốc hội và chính phủ có các biện pháp chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt và thích hợp, tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt mức 6,8% - 7,5% thì khả năng lạm phát cả năm có thể sẽ ở mức 3,8 – 4,1%.
Để kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4,5% như chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ đề ra, tìm cách ổn định thị trường tài chính tiền tệ, tiếp tục hạ thấp tỷ lệ lạm phát, ông Thịnh cho rằng, cần tiếp tục giữ vững ổn định giá trị VND, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế.
“Tăng trưởng kinh tế sẽ là nhân tố hỗ trợ đắc lực cho việc giữ ổn định nền kinh tế, giúp tránh được tâm lý hoài nghi của các doanh nghiệp và các tầng lớn dân cư, tránh tình trạng “lạm phát do tâm lý”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, NHNN cần tiếp tục theo dõi sát tình hình biến động của nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính – tiền tệ, chủ động, thực hiện điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoán linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao giá trị đồng Việt Nam, góp phần kìm giữ lạm phát cơ bản để làm cơ sở cho việc kìm giữ chỉ số giá tiêu dùng bình quân.
“Cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả. Kiểm tra chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, tránh việc điều chỉnh giá, tăng giá bất hợp lý”, TS. Đinh Trọng Thịnh lưu ý./.