Japan Inc. là một thuật ngữ dành riêng cho Nhật Bản, xuất hiện vào khoảng cuối những thập niên 60, khi quốc gia này đang phát triển thần tốc.
Đặc điểm của kinh tế Nhật Bản thời bấy giờ là tư bản chủ nghĩa, thị trường tự do nhưng có sự tập trung và chỉ đạo một cách chủ động từ chính phủ và ngân hàng trung ương. Văn hóa doanh nghiệp cũng hình thành rõ nét nhờ vào giai đoạn này. Với những đặc điểm như vậy, cả nước Nhật giống như một tập đoàn khổng lồ, và thuật ngữ Japan Inc., ra đời từ đó.
Nikkei Asia đưa tin, Japan Inc. đã ghi nhận 182 thương vụ M&A trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6, tăng 56% so với một năm trước, với tổng giá trị tăng 455% lên 2,16 nghìn tỷ JPY (19 tỷ USD), theo dữ liệu từ công ty tư vấn M&A Recof.
Điều này thể hiện sự khao khát tăng trưởng của Nhật Bản, đặc biệt khi họ đang phải đối mặt với tình trạng dân số ngày càng giảm. Việc triển khai vaccine được đẩy nhanh đã thúc đẩy sự lạc quan về kinh tế.
Doanh nghiệp Nhật Bản vốn đã hứng thú với hoạt động mua bán sáp nhập toàn cầu ngay từ trước khi Covid-19 bùng phát. Ngày càng nhiều công ty tìm cách đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và đầu tư ra nước ngoài. Vào năm 2019, tổng số vụ mua lại ở nước ngoài đạt mức cao nhất trong lịch sử là 826.
Sau khi đại dịch xảy ra, nhiều công ty đã phải trì hoãn hoạt động đầu tư do lo ngại về tình hình kinh tế toàn cầu và sự gián đoạn chuỗi cung ứng gia tăng. Nhiều doanh nghiệp cũng ưu tiên bảo vệ nhân viên và bảo toàn tiền mặt thay vì tăng cường đầu tư.
Tuy nhiên, khi việc triển khai vaccine được tăng tốc ở một số quốc gia, cùng với việc các siêu cường toàn cầu như Mỹ và Trung Quốc có dấu hiệu phục hồi kinh tế, mối quan tâm đến hoạt động M&A xuyên biên giới ở Nhật Bản đang dần hồi phục.
Trong quý 2, các thương vụ mua lại ở nước ngoài đã tăng tốc. Số lượng giao dịch tăng 29% so với quý đầu tiên, tổng giá trị tăng 9%.
Tổng giá trị thương vụ trong nửa đầu năm 2021 đã đạt 4,1 nghìn tỷ JPY, ngang bằng với tổng giá trị thương vụ năm 2020 là 4,4 nghìn tỷ JPY.
BIZIT, công ty vận hành nền tảng đầu tư trực tuyến dưới sự tư vấn M&A toàn cầu của GCA Corp., cho biết: "Động lực cho các thương vụ mua lại ở nước ngoài đang bắt đầu tăng lên, với minh chứng là rất nhiều công ty truy cập vào nền tảng của chúng tôi trong 2-3 tháng qua".
Thương vụ mua lại lớn nhất được công bố cho đến nay trong năm nay là của Hitachi. Công ty thiết bị điện này chuẩn bị mua lại nhà phát triển phần mềm GlobalLogic của Mỹ với giá 9,6 tỷ USD với mục tiêu thúc đẩy Lumada, nền tảng Internet of Things quan trọng của họ.
Một công ty điện tử Nhật Bản khác là Panasonic cũng có kế hoạch hoàn tất việc mua lại Blue Yonder, nhà phát triển hệ thống quản lý chuỗi cung ứng của Mỹ, với giá 7,1 tỷ USD - thương vụ mua lại lớn nhất trong một thập kỷ.
Keishi Sakakibara, giám đốc phụ trách các thương vụ xuyên biên giới của Nihon M&A Center, công ty M&A độc lập lớn nhất Nhật Bản, cho biết: "Hầu hết các thương vụ đang được thực hiện là do các công ty Nhật Bản mua các nhà sản xuất phần mềm hoặc các công ty liên quan đến CNTT".
Ông chỉ ra rằng các nhà sản xuất phần mềm dễ mua hơn so với các nhà sản xuất hàng hóa, vì "hạn chế đi lại khiến các công ty khó đến thăm các nhà máy ở nước ngoài". Ông nói thêm: "Các công ty Nhật Bản do dự khi mua mà không thực sự nhìn thấy nhà máy và hoạt động của người bán."
Tập đoàn đầu tư công nghệ SoftBank Group cũng đã bơm ra gần 3 tỷ USD nguồn vốn mới bằng cách mua 40% cổ phần của AutoStore, một công ty robot có trụ sở tại Na Uy chuyên về công nghệ tự động hóa nhà kho. Cùng nhau, họ đang tìm cách nắm bắt sự tăng trưởng trong thị trường hậu cần khi đại dịch thúc đẩy hoạt động mua sắm trực tuyến.
Trong khi các thương vụ lớn nhất chủ yếu bao gồm các công ty Nhật Bản mua lại các công ty phương Tây, các thương vụ nhỏ hơn ở châu Á vẫn đang tăng về số lượng.
BIZIT lưu ý rằng nhu cầu mua lại các công ty ở Singapore và Việt Nam rất mạnh. Cả hai quốc gia đều cho thấy khả năng phục hồi kinh tế nhờ thực hiện các biện pháp kiểm soát Covid-19 nghiêm ngặt.
Sakakibara của Trung tâm Mua bán sáp nhập Nihon hy vọng các thương vụ sẽ tiếp tục thành công khi các quốc gia mở cửa lại hoạt động nhập cảnh với mục đích kinh doanh và tốc độ tiêm chủng tăng nhanh.