Kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu, mọi quốc gia - trừ những người may mắn có được trữ lượng dầu khổng lồ - đều giàu lên theo cùng một cách: làm tốt việc sản xuất.
Các quốc gia như Anh, Đức, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đều trở thành những nhà sản xuất đẳng cấp thế giới từ rất lâu trước khi nền kinh tế của họ bắt đầu chuyển hướng sang dịch vụ. Gần đây, một "lứa" mới của các nước sắp chuyển sang giai đoạn phát triển bao gồm Malaysia, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Romania, Thái Lan và Mexico cũng đã tăng cường năng lực sản xuất của họ.
Hai nhà kinh tế Ha-Joon Chang và Dani Rodrik cùng với nhà văn Joe Studwell đã lập luận rằng: việc thúc đẩy xuất khẩu và sản xuất là rất quan trọng cho loại hình phát triển này.
Phát triển, về cơ bản là về sự thay đổi cấu trúc, hướng tới việc sản xuất các sản phẩm có thể xuất khẩu giá trị cao - hầu hết trong số đó thường là hàng hóa sản xuất. Cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu cũng buộc các nhà sản xuất của một quốc gia tăng năng suất và thúc đẩy họ áp dụng các công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Một số quốc gia đang phát triển đã cố gắng đưa ý tưởng này vào thực tế. Hai ví dụ nổi bật là Việt Nam và Bangladesh, đã có sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong những năm gần đây:
Các dữ liệu phản ánh tình hình sản xuất công nghiệp của họ phù hợp với "nấc thang đầu tiên trên thang sản xuất" của các quốc gia. Mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là hàng điện tử và quần áo, trong khi Bangladesh là quần áo và dệt may.
Nhưng đáng lo ngại, Rodrik đã tranh luận trong nhiều năm rằng: con đường phát triển theo hướng sản xuất thành công đã đóng lại. Trong một bài thuyết trình năm 2016 có tên là "Thời đại của sự tăng trưởng vượt trội?", ông cho rằng các nước như Trung Quốc và Malaysia sẽ là những quốc gia cuối cùng có thể dựa vào sản xuất để tạo ra bước nhảy vọt từ nghèo đói sang giàu có.
Lập luận của Rodrik chủ yếu là một lý thuyết thực nghiệm. Cho rằng hầu hết các quốc gia phát triển chuyển dịch cơ cấu từ sản xuất sang dịch vụ sau khi họ trở nên giàu có, Rodrik nhận thấy, trong những thập kỷ gần đây, quá trình chuyển dịch này đã xảy ra sớm hơn. Điều này khiến nhiều nước đang phát triển bắt đầu chuyển sang sản xuất sớm hơn, trước khi cơ sở hạ tầng và các nguồn lực của họ phù hợp với việc công nghiệp hóa hoàn toàn.
Một bài báo năm 2015 của các nhà kinh tế Douglas Gollin, Remi Jedwab và Dietrich Vollrath thấy rằng ở nhiều nước đang phát triển, đô thị hóa hiện nay khiến người nghèo chuyển từ các trang trại sang thẳng ngành dịch vụ thay vì làm việc trong các nhà máy.
Đối với các nước như Việt Nam và Bangladesh, đây là tin xấu. Nếu Rodrik đúng, sức mạnh sản xuất hiện tại của họ có thể "bốc hơi". Họ có thể đi vào "vết xe đổ" của các quốc gia như Indonesia, Nigeria và Brazil... những nơi sản xuất đang giảm dần theo tỷ lệ GDP:
Lý do cho việc này là gì? Một lời giải thích rõ ràng là tự động hóa. Sớm muộn thì robot cũng sẽ thay thế phần đáy của thị trường lao động trong chuỗi cung ứng. Khi đó, những người lao động nghèo, không có kỹ năng, thường hoạt động trong các ngành sản xuất có giá trị gia tăng thấp hơn, như may mặc, đồ chơi và lắp ráp điện tử, sẽ không còn có lợi thế so sánh.
Tuy nhiên, vẫn có thể lạc quan khi, một số nghiên cứu đã chỉ ra sự xuất hiện của robot thậm chí còn tạo ra việc làm, kể cả cho những người có tay nghề thấp.
Quan trọng hơn, Rodrik đã sai về mốc thời gian khi nói rằng công nghệ là lý do khiến các quốc gia kể trên rơi vào tình trạng công nghiệp hóa "đảo ngược". Quá trình đảo ngược đó ở Nigeria và Brazil - xảy ra vào những năm 1980 và 1990. Thời điểm đó, Trung Quốc đang tăng cường năng lực sản xuất trong các ngành công nghiệp thâm dụng lao động và tạo ra phép màu tăng trưởng của riêng mình. Có những câu chuyện khác diễn ra ở các quốc gia công nghiệp hóa "đảo ngược".
Ví dụ, ở châu Phi, một số quốc gia đã sử dụng chính sách thay thế nhập khẩu, tự đóng cửa để buôn bán và cố gắng tự sản xuất hàng hóa của mình, thường sử dụng các nhà máy quốc doanh kém hiệu quả. Brazil đã sử dụng cách thức tương tự. Sau khi chiến lược thay thế nhập khẩu không hiệu quả, họ đã buộc phải mở biên giới cho hàng nhập khẩu. Tai hại là, lại càng làm suy giảm các ngành công nghiệp địa phương vốn đã không hiệu quả.
Nigeria năm 1980
Ngoài những sai lầm chính sách của chính họ, quá trình công nghiệp hóa của Trung Quốc cũng có thể đã góp phần khiến các quốc gia nói trên nghèo đi. Sức mạnh sản xuất đáng kinh ngạc của Trung Quốc đã khiến các công ty đa quốc gia quay lưng lại với các đối thủ chậm chạp như Indonesia, kìm hãm các ngành công nghiệp non trẻ của chính họ.
Một lý thuyết kinh tế của Paul Krugman, Masahisa Fujita và Anthony Venables có thể chỉ ra nguyên nhân. Các nhà kinh tế này dự đoán rằng, khi nền kinh tế thế giới phát triển, các khu vực sẽ công nghiệp hóa theo từng giai đoạn, từng vùng một. Nếu điều này là đúng, thì các quốc gia khác sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc chờ đợi Trung Quốc hoàn thành phép màu tăng trưởng của riêng họ, rồi mới có thể bắt đầu.
Thời điểm đó có thể đã cận kề: chi phí sản xuất ở Trung Quốc tăng nhanh, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, và mong muốn đa dạng hóa của các công ty đa quốc gia trước các mối đe dọa như coronavirus. Có lẽ đã đến lúc các nước như Việt Nam và Bangladesh tiếp quản nhiều ngành sản xuất thâm dụng lao động. Ngay cả các quốc gia như Indonesia, giờ cũng có thể có cơ hội thứ hai. Các nước đang phát triển không nên từ bỏ giấc mơ "làm giàu" dựa vào sản xuất.