Chính sách thắt chặt tiền tệ
Chính sách tiền tệ thắt chặt đã áp dụng ở hầu hết các nước ASEAN - ngoại trừ Singapore và Philippines - không tích cực như các thị trường mới nổi khác. Cốt lõi lạm phát - không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm - đã không tăng mạnh, điều này đã cho phép các ngân hàng trung ương ASEAN đo lường được nhiều hơn mức lãi suất tăng. Cục Dự trữ Liên bang (Fed) của Mỹ và BoE của Anh đã tăng lãi suất lần lượt là + 225 điểm cơ bản (bps) và + 150bps so với trước đây và vẫn chưa hoàn thành chu kỳ tăng của họ.
Cho đến nay, BNM của Malaysia đã tăng + 50bps, trong khi BoT của Thái Lan và Indonesia BI chỉ bắt đầu tăng + 25bps trong các cuộc họp tháng 8 gần đây của họ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) vẫn chưa bắt đầu tăng lãi suất chính sách, mặc dù họ đã duy trì một tín dụng thận trọng giới hạn tăng trưởng cho năm nay.
Ngoại lệ duy nhất là BSP của Philippines, đã tăng + 175bps cho đến nay để kiềm chế lạm phát, theo đó, họ đã có một đợt tăng lãi suất + 50bps nữa lên 3,75% vào tháng 8 năm 2022.
Lãi suất ngắn hạn của Singapore cũng đã tăng mạnh trở lại trên lãi suất cao hơn của Hoa Kỳ, với SIBOR 3 tháng tăng lên 2,56 (tính đến 25/ 8) từ 0,4% ở mức đáy.
Căng thẳng và lỗ hổng
Các ngân hàng trung ương ASEAN đã và đang bước vào cuộc để bảo vệ tiền tệ của họ chống lại một đô la Mỹ mạnh và đã chứng kiến dự trữ ngoại hối của họ giảm từ mức cao trước đây.
Dự trữ ngoại hối trên toàn ASEAN đã giảm trong năm 2022. (Nguồn: Maybank Group)
Đặc biệt, dự trữ của Thái Lan giảm -10,6% từ đầu năm đến nay, mức thấp nhất trong 3 năm là 220 tỷ USD vào tháng 7, trong khi Philippines (-9,9%), Indonesia (-8,8%), và Malaysia (-6,6%) cũng giảm.
Lợi suất trái phiếu tăng sẽ tiêu cực đối với các nước ASEAN có nợ công cao và tỷ lệ trả nợ, giảm không gian tài chính để ứng phó với bất kỳ suy thoái, bao gồm tăng các khoản vay của các chính phủ ASEAN để tài trợ cho COVID-19 các gói hỗ trợ tài khóa đã nâng tỷ lệ nợ công và khả năng trả nợ của họ. Vì ví dụ, dự thảo Ngân sách năm 2023 của Indonesia đang bao thanh toán bằng đồng tiền yếu (Rp14.750 so với USD) và lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm cao (7,85%), sẽ làm tăng thêm gánh nặng nợ nần.
Nợ công đã tăng cao nhất ở Philippines (61,3% GDP trong quý 2 năm 2022 từ 42,9% vào năm 2019), Thái Lan (61,1% GDP trong quý 2/2022 từ 41,2% năm 2019) và Malaysia (61% trong quý 1/22 từ 52,5% năm 2019). Tuy nhiên, đòn bẩy trong việc này khu vực này tương đối thấp so với các thị trường mới nổi khác hoặc các nền kinh tế.
Nợ công tại Phillippines, Thái Lan và Malaysia tăng mạnh. Riêng số liệu của Việt Nam được tính toán bằng sử dụng chuỗi GDP mới được đánh giá lại phát hành vào năm 2021 (Nguồn: Maybank Group)
Một điểm đáng lưu ý, trong khi đó, Mỹ lại cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại ASEAN, chiếm khoảng 14,5% tổng dòng vốn FDI trong thập kỷ qua (2012 đến 2021), vượt qua Nhật Bản (12,5%) và EU (12,3%), dựa trên dữ liệu từ Ban Thư ký ASEAN. Nếu nền kinh tế Mỹ suy thoái, sẽ làm giảm dòng vốn FDI vào khu vực.
Dù vậy, trong tương quan chung, ASEAN đang nổi lên như một bến cảng phòng thủ và tách biệt một phần khỏi suy thoái kinh tế Mỹ và suy thoái tiềm tàng. Chúng tôi kỳ vọng GDP ASEAN-5 (không bao gồm Singapore) sẽ duy trì khả năng phục hồi và tăng + 5,3% trong nửa cuối năm 2022 (so với + 5,4% trong nửa đầu năm 2022) và + 4,9% vào năm 2023, mặc dù tăng trưởng của Hoa Kỳ và toàn cầu đang chậm lại.
Tăng trưởng GDP ở Singapore, Malaysia và Thái Lan trong lịch sử có mối tương quan nhiều hơn với các chu kỳ kinh doanh của Hoa Kỳ, vì nền kinh tế của họ hướng về xuất khẩu nhiều hơn, trong khi tăng trưởng GDP ở Indonesia và Philippines ít tương quan hơn.
Việt Nam đã không rơi vào suy thoái trong các cuộc suy thoái trước đây của Hoa Kỳ, nhưng mối tương quan và sự phụ thuộc vào giá trị gia tăng của Hoa Kỳ đã tăng lên trong thập kỷ qua.
Singapore vẫn là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước cuộc suy thoái của Hoa Kỳ, mặc dù các xu hướng mở cửa trở lại; phục hồi việc làm nước ngoài; chuyển trụ sở, nhân tài và dòng vốn từ Hồng Kong & Trung Quốc; và hỗ trợ tài chính sẵn có là những yếu tố giảm thiểu.