Những năm gần đây, vấn đề môi trường được nhấn mạnh tại hàng loạt diễn đàn đa phương. Các tổ chức cho vay và tài chính toàn cầu đều có những động thái mạnh mẽ với điện than và các dự án phát thải cao.
Tới nay, đã có hàng trăm ngân hàng, công ty bảo hiểm và quản lý tài sản, cùng với nhà đầu tư trên toàn cầu (bao gồm các tổ chức tài chính đa phương và đầu tư tài chính) đưa ra thông báo về việc rút khỏi các dự án khai thác than và nhà máy điện than. Những đơn vị này có thể kể đến các ngân hàng hàng đầu thế giới như World Bank, ADB, Standard Chartered, Maybank, SMBC…
Trao đổi với Trí Thức Trẻ, ông Peter De Boeck, Giám đốc Hợp danh, McKinsey & Company Việt Nam cho biết: "Hiện nay, lĩnh vực sản xuất, ngành điện sử dụng dụng nhiên liệu hóa thạch, và ngành nông nghiệp với mức phát thải cao đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của Việt Nam. Điều này tiềm ẩn rủi ro "mắc kẹt tài sản", khi dung lượng vốn nằm trong các tài sản sử dụng nhiên liệu hóa thạch".
Việt Nam tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26) sẽ hiện thực hóa cam kết net zero vào năm 2050. Theo ông, thách thức lớn nhất của Việt Nam trên con đường hướng tới mục tiêu này là gì?
Nếu bạn có theo dõi, thì một báo cáo gần đây của chúng tôi với tiêu đề "The net-zero transition: What it would cost, what it could bring" (Tạm dịch: "Chuyển tiếp sang trạng thái net-zero: Chi phí và lợi ích tiềm năng") đã đưa ra ước tính về những chuyển đổi kinh tế cần thiết để đạt mục tiêu net zero vào năm 2050 tại 69 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Theo đó, chúng tôi cũng đã chỉ rõ một số thách thức tiềm ẩn đối với Việt Nam.
Theo McKinsey, hiện nay, thách thức lớn nhất chính là lĩnh vực sản xuất, ngành điện sử dụng dụng nhiên liệu hóa thạch, và ngành nông nghiệp với mức phát thải cao đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của Việt Nam. Điều này tiềm ẩn rủi ro "mắc kẹt tài sản", khi dung lượng vốn nằm trong các tài sản sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Ví dụ như, các nhà máy điện nhiệt than của Việt Nam có "tuổi đời" thấp hơn hơn so với tại các nền kinh tế phát triển.
Nếu không lập kế hoạch cẩn thận, việc tiếp tục chú trọng đến các tài sản có chi phí thấp với mức phát thải cao có thể dẫn đến nguy cơ phải dừng sử dụng sớm hơn dự kiến hoặc giảm khai thác các tài sản đó chỉ sau vài năm khi thế giới chuyển sang con đường net-zero.
Song, cũng may mắn là Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc mở rộng công suất sản xuất năng lượng tái tạo, bao gồm năng lượng mặt trời và năng lượng gió, là những loại năng lượng có tiềm năng trở thành các phương án đáp ứng một cách bền vững nhu cầu năng lượng của quốc gia với chi phí thấp hơn. Do đó, có một vài con đường mà Việt Nam có thể lựa chọn để đạt được mục tiêu net-zero như mong muốn.
Có 6 nguyên mẫu quốc gia chịu ảnh hưởng và Việt Nam được Mckinsey xếp vào nhóm sản xuất có tỷ lệ phát thải cao. Tại sao Việt Nam không được McKinsey xếp vào nhóm các quốc gia nông nghiệp dù tỷ trọng nông nghiệp còn cao?
Mặc dù nông, lâm, ngư nghiệp có chiếm một tỷ trọng nhất định trong GDP của Việt Nam (~14,8% ở năm 2020 theo số liệu của Ngân hàng Thế giới), song theo cách phân loại của chúng tôi, những nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là những quốc gia có nền kinh tế với tỷ trọng nông nghiệp và lâm nghiệp cao hơn
Lấy ví dụ, nông nghiệp là nguồn chủ đạo tạo việc làm và thu nhập cho phần đông dân số tại Ghana, Kenya, Ma-rốc, Philippines, Senegal, và Sri Lanka. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp cùng nhau chiếm tới 54% tổng số việc làm, 29% GDP, và 24% dung lượng vốn đối với các quốc gia theo mô hình này.
Đứng trước rủi ro tài sản bị mắc kẹt tại các dự án điện than hay các dự án sản xuất phát thải cao không, Việt Nam nên làm gì?
Chúng tôi gợi ý 3 giải pháp.
Điều chỉnh đầu tiên cần thực hiện là tái phân bổ vốn một cách hiệu quả từ các tài sản có mức phát thải cao sang các tài sản có mức phát thải thấp, cũng như thiết lập các cơ chế cấp vốn mới cho các dự án, chương trình liên quan đến khí hậu. Một trong những giải pháp có thể áp dụng là triển khai các sản phẩm tài chính cung cấp phương tiện giúp các doanh nghiệp giảm dần các tài sản có mức phát thải cao còn lại từ thời kỳ trước, đồng thời mở rộng quy mô các tài sản mới với mức phát thải thấp.
Điều chỉnh thứ hai là quản lý một cách hiệu quả những thay đổi về nhu cầu và biến động chi phí đơn vị theo hướng gia tăng trong ngắn hạn. Đơn cử, có thể nuôi dưỡng các hệ sinh thái công nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp cùng hợp tác nhằm phát triển các năng lực và công nghệ có mức phát thải thấp với chi phí thấp hơn.
Cuối cùng, cần thiết lập cơ chế đền bù để giải quyết những thay đổi kinh tế xã hội phát sinh từ quá trình chuyển dịch, bao gồm hỗ trợ tạo ra các ngành mới với mức phát thải thấp, như ngành sản xuất điện mặt trời và điện gió, hay ngành nông nghiệp carbon thấp.
Hiện nay, Việt Nam hiện đang được các công ty đa quốc gia rất quan tâm để đặt nhà máy sản xuất, điều đó cũng khiến Việt Nam đứng trước rủi ro của các dự án gây ô nhiễm môi trường. Theo ông, phương trình net-zero và tăng trưởng kinh tế có thể được cân bằng?
Thực ra, khi bàn về mối liên hệ giữa net-zero và tăng trưởng kinh tế, hai khía cạnh này hoàn toàn có thể song hành, với điều kiện quá trình chuyển tiếp phải được quản lý một cách hiệu quả.
Trên toàn cầu, báo cáo của chúng tôi ước tính, tổng số vốn chi cho các tài sản vật lý để dịch chuyển sang trạng thái net-zero sẽ vào khoảng 275 nghìn tỷ USD, có nghĩa là số tiền chi ra sẽ cần tăng từ 5,7 nghìn tỷ USD tại thời điểm hiện tại lên bình quân 9,2 nghìn tỷ USD/năm từ nay đến năm 2050.
Các nền kinh tế đang phát triển và có những ngành kinh tế lớn dựa nhiều vào nhiên liệu hóa thạch thường cần đầu tư nhiều hơn cho nỗ lực phi carbon hóa và tăng trưởng carbon thấp – xét một cách tương đối so với GDP – khi so sánh các nền kinh tế phát triển.
Song, mức chi như vậy có thể là động lực quan trọng thúc đẩy GDP đối với Việt Nam và có thể đóng góp vào cơ hội tăng trưởng, đặc biệt ở các loại hàng hóa dịch vụ có mức phát thải thấp được dự báo sẽ mở rộng đáng kể trong tương lai.
Vậy cụ thể thì Việt Nam sẽ hưởng lợi như thế nào về mặt kinh tế với net-zero?
Những điều chỉnh kinh tế cần thiết để đưa nền kinh tế đạt trạng thái net-zero sẽ mang lại nhiều cơ hội và ngăn ngừa rủi ro. Chi tiêu bổ sung vốn vào các tài sản vật lý luôn tạo cơ hội tăng trưởng, liên quan đến các loại hình sản phẩm và các dịch vụ phụ trợ mới với mức phát thải thấp, cũng như chuỗi cung ứng của các sản phẩm dịch vụ đó.
Ông Peter De Boeck, Giám đốc Hợp danh, McKinsey & Company Việt Nam
Quan trọng nhất là, việc đạt được trạng thái phát thải net-zero và khống chế không để sự nóng lên toàn cầu vượt quá 1,50C sẽ làm giảm bớt nguy cơ khởi phát những tác động mang tính thảm họa của biến đổi khí hậu, như hạn chế được nguy cơ xảy ra tình trạng tác hại leo thang theo cơ chế vòng lặp luẩn quẩn, và bảo toàn được khả năng kiềm chế không để trái đất nóng lên hơn nữa.
McKinsey từng cho biết trong báo cáo, quy mô kinh tế sẽ có sự chuyển đổi lớn trong quá trình chuyển tiếp sang trạng thái net zero, điều đó sẽ thể hiện ở Việt Nam ra sao?
Tại các thị trường mới nổi khác ngoài Việt Nam, các loại công nghệ phát thải thấp mới xuất hiện và vẫn có mức giá đắt đỏ thường quá nhỏ và khó dự báo trước nên không thể giúp các nhà sản xuất đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
Tuy nhiên, trong vài năm qua, Việt Nam đã cho thấy những thành tựu tốt về thu hút FDI và đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào các dự án điện mặt trời và điện gió, thể hiện khả năng đứng vững trên phương diện tài chính. Do đó, các ngân hàng ngày càng sẵn sàng cấp vốn cho các dự án này với lãi suất một con số. Các doanh nghiệp tiên phong đã bắt đầu triển khai một số dự án điện gió mới với quy mô lớn tại Việt Nam. Điều này sẽ giúp giải quyết phương diện nguồn cung.
Các doanh nghiệp muốn tìm cách giảm phát thải Phạm vi 2 và 3 trong chuỗi cung ứng sản xuất của mình có thể cân nhắc Việt Nam như một địa chỉ tiềm năng để đặt nhà máy, nhờ tỷ trọng năng lượng tái tạo cao của Việt Nam. Điều này sẽ giúp giải quyết phương diện nhu cầu.
Mặc dù hiệu quả kinh tế nhờ quy mô tại Việt Nam sẽ cần thời gian để phát triển dần, song chúng tôi nhận thấy, Việt Nam đã sở hữu và thiết lập được những yếu tố căn bản để hỗ trợ quá trình chuyển tiếp.
Việt Nam đang là một trong số các quốc gia châu Á mới nổi về năng lượng tái tạo và cũng được thế giới chú ý với cả việc sản xuất xe điện. Ông đánh giá thế nào về những nỗ lực này?
Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong đầu tư cho năng lượng tái tạo. Vốn vay dành cho các dự án ESG tại Việt Nam đã tăng từ 3,3 tỷ USD ở năm 2018 lên 37,5 tỷ USD ở năm 2021, trong khi vốn vay dành cho các dự án năng lượng tái tạo cũng tăng từ 1,6 tỷ USD lên 20,5 tỷ USD trong cùng kỳ.
Việt Nam cũng dự trữ được một số kim loại đất hiếm với trữ lượng cao gấp hơn 10 lần so với sản lượng khai thác toàn cầu hàng năm tại thời điểm hiện tại. Những kim loại này sẽ đóng vai trò quan trọng để sản xuất các công nghệ phát thải thấp, bao gồm tiềm năng sản xuất xe điện trong tương lai.
Theo tôi, Việt Nam đã hội đủ điều kiện để sẵn sàng mở rộng từ những bước tiến đã đạt được trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và xe điện.
Cảm ơn ông!