Trong toàn bộ lịch sử của thị trường chứng khoán Mỹ, đã có nhiều cá nhân sử dụng quyền truy cập thông tin nội bộ để đạt được lợi thế một cách không công bằng. Mặc dù Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC) đã đưa ra các quy tắc để bảo vệ các khoản đầu tư khỏi tác động của giao dịch nội gián, nhưng các hành vi này thường khó bị phát hiện.
Như vậy, khi ai đó bị "bắt quả tang" giao dịch nội gián, sự kiện có thể gây tranh cãi, thậm chí là tranh chấp. Các trường hợp vi phạm cũng có xu hướng thu hút nhiều sự chú ý của giới truyền thông, đặc biệt nếu người bị buộc tội là một nhân vật được công chúng biết đến rộng rãi. Dưới đây là bốn trường hợp đáng chú ý của giao dịch nội gián, bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 và kéo dài đến thời hiện đại.
Sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall năm 1929, có thông tin tiết lộ rằng Albert H. Wiggin, người đứng đầu Ngân hàng JP Morgan Chase, đã bán khống hơn 40.000 cổ phiếu của chính công ty mình. Sử dụng các công ty thuộc sở hữu của gia đình mình để che giấu các giao dịch, ông Wiggin đã tạo dựng những lợi thế đặc biệt trong việc điều hành công ty của mình.
Vào thời điểm đó, không có quy định cụ thể nào ngăn cấm việc bán khống cổ phiếu của chính công ty mà người nào đó sở hữu. Vì vậy, sau vụ sụp đổ năm 1929, khi nhiều nhà đầu tư "rơi đài" cùng một lúc, ông Wiggin đã kiếm được hơn 4 triệu USD một cách hợp pháp khi bán khống 42.000 cổ phiếu của ngân hàng này. Cho đến năm 1932, khi Thượng viện Mỹ điều tra về nguyên nhân của vụ giá cổ phiếu lao dốc năm 1929, các giao dịch của Wiggin mới được công chúng biết đến.
Ngoài lợi nhuận kiếm được từ việc bán khống cổ phiếu của chính công ty mình, ông cũng nhận được khoản trợ cấp 100.000 USD/năm từ ngân hàng. Sau đó, ông đã từ chối nhận lương hưu do bị công chúng và giới truyền thông phản đối kịch liệt.
Ông Wiggin không phải là người duy nhất tham nhũng trong thời gian này. Đạo luật Chứng khoán và Hối đoái năm 1934 đã được thông qua để ngăn chặn những trường hợp tham nhũng, tăng cường tính minh bạch trên thị trường tài chính và giảm thiểu các hành vi gian lận hoặc thao túng. Đặc biệt, Đạo luật bao gồm "Điều khoản Wiggin" cấm các giám đốc công ty bán khống cổ phiếu của chính họ để thu lợi khi công ty lâm vào cảnh khó khăn.
Ivan Boesky là một nhà giao dịch chứng khoán người Mỹ, ông đã trở nên nổi tiếng với một vụ bê bối giao dịch nội gián trong những năm 1980. Vụ bê bối này cũng liên quan đến một số nhân viên công ty khác tại các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ, họ đã cung cấp cho ông những lời khuyên về các vụ tiếp quản công ty sắp tới.
Ông Boesky có công ty môi giới chứng khoán của riêng mình tên là Ivan F. Boesky & Company. Bắt đầu từ năm 1975 khi mở công ty, ông đã kiếm được một số tiền khổng lồ khi đầu cơ vào các vụ thâu tóm công ty. Năm 1987, sau khi một nhóm các đối tác của công ty ông đâm đơn kiện về các thỏa thuận pháp lý gây hiểu lầm, SEC bắt đầu điều tra ông. Sau đó, người ta tiết lộ rằng ông đã đưa ra quyết định đầu tư của mình dựa trên thông tin nhận được từ nội bộ doanh nghiệp.
Ông Boesky đã trả tiền cho các nhân viên của công ty ngân hàng đầu tư Drexel Burnham Lambert, có liên quan đến chi nhánh mua bán và sáp nhập (M&A), để lấy những thông tin giúp ông giành lợi thế trong việc mua bán. Ông Boesky đã kiếm được lợi nhuận từ hầu hết các thương vụ M&A lớn trong những năm 1980, bao gồm Getty Oil, Nabisco, Gulf Oil, Chevron và Texaco.
Các hành vi vi phạm đã giúp ông thu về tổng cộng 50 triệu USD lợi nhuận bất hợp pháp. Ông Boesky bị kết tội giao dịch nội gián vào năm 1986, nhận bản án 3,5 năm tù và phải nộp phạt 100 triệu USD. Mặc dù được thả chỉ sau hai năm, ông đã bị SEC cấm "bước chân" vào thị trường chứng khoán vĩnh viễn.
R. Foster Winans là một nhà báo của Tạp chí Phố Wall, ông đã viết một chuyên mục có tên "Nghe thấy trên phố". Mặc dù bề ngoài ông không liên quan đến các khoản giao dịch, nhưng mối liên hệ giữa các phương tiện truyền thông tài chính ở New York và các thương nhân chia sẻ tin mật là khó có thể tránh khỏi hoàn toàn.
Ông Winans đã lập hồ sơ về một cổ phiếu nhất định và các cổ phiếu được ghi trong chuyên mục thường tăng hoặc giảm theo ý của ông. Người môi giới biết rằng họ có thể giao dịch dựa trên thông tin đó trước khi chuyên mục được xuất bản. Sau khi các nhà môi giới có thể kiếm được lợi nhuận, họ sẽ chia một phần cho Winans.
Cuối cùng, ông Winans đã bị SEC bắt giữ. Trường hợp của ông khá phức tạp vì chuyên mục này là ý kiến cá nhân của ông, chứ không phải thông tin nội bộ quan trọng. Tuy nhiên, SEC cuối cùng đã kết tội ông với cáo buộc thông tin về các cổ phiếu có trong mục này thuộc về Tạp chí Phố Wall chứ không phải của chính Winans.
Vào tháng 12/2001, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) thông báo rằng họ sẽ không chấp thuận một loại thuốc điều trị ung thư mới có tên là Erbitux của công ty dược phẩm ImClone. Do công chúng rất mong đợi loại thuốc này sẽ được phê duyệt, loại thuốc này đại diện cho một phần chính của kế hoạch phát triển trong tương lai của ImClone. Kết quả là cổ phiếu của công ty sụt giảm nhanh chóng.
Trong khi nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ do sự sụt giảm, gia đình và bạn bè của Giám đốc điều hành Samuel Waksal lại không hề hấn gì. Sau đó, SEC đã phát hiện ra rằng trước khi công bố quyết định của FDA, nhiều giám đốc điều hành đã bán cổ phiếu của họ dựa trên hướng dẫn của ông Waksal, và ông cũng bán cổ phiếu của chính mình.
Trên thực tế, chỉ vài ngày trước khi thông báo được đưa ra, doanh nhân người Mỹ Martha Stewart đã bán khoảng 4.000 cổ phiếu của công ty. Vào thời điểm này, cổ phiếu vẫn giao dịch ở mức cao và bà Stewart đã kiếm được gần 250.000 USD. Cuối cùng, cổ phiếu đã giảm mạnh từ khoảng 60 USD xuống chỉ còn hơn 10 USD trong những tháng tiếp theo.
Bà Stewart cuối cùng đã từ chức Giám đốc điều hành tại công ty riêng của mình, Martha Stewart Living Omnimedia. Cựu Giám đốc điều hành ImClone Samuel Waksal đã bị kết án 87 tháng tù giam và bị phạt 4,3 triệu USD sau khi nhận tội sáu tội danh, bao gồm giao dịch nội gián và gian lận. Năm 2004, Martha Stewart và người môi giới của bà cũng bị kết tội giao dịch nội gián. Bà Stewart bị kết án 10 tháng tù giam và nộp phạt 30.000 USD.
Tham khảo Investopedia