Hiện có khá nhiều nghiên cứu về tình hình hậu Covid-19 , với đánh giá chủ yếu về tác động của Covid-19 đến tăng trưởng GDP .
Theo cơ quan thống kê, GDP quý I/2020 của Hoa Kỳ giảm 4,8% (tăng trưởng -4,8%) và của Việt Nam tăng trưởng 3,82%.
Các tổ chức và các chuyên gia trong nghiên cứu của họ, ở mức độ khác nhau, đa phần dự báo Việt Nam vẫn có tăng trưởng GDP chỉ thấp hơn năm trước cho dù cả thế giới tăng trưởng âm.
Về lý thuyết GDP là một chỉ tiêu mang tính ngắn hạn và nhất thời, về dài hạn cần đánh giá thông qua tiết kiệm (saving). Tăng trưởng GDP là tốt nhưng để điều hành nền kinh tế không chỉ có vấn đề tăng trưởng GDP mà còn nhiều chỉ tiêu quan trong khác như: tổng thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) và đặc biệt là chỉ tiêu tiết kiệm (saving) phản ánh nguồn lực thực sự của nền kinh tế.
Câu hỏi đặt ra là nguồn lực của nền kinh tế Việt Nam ra sao?
Những nghịch lý khi nhìn vào tăng trưởng
Nếu chỉ nhìn vào quy mô GDP để đánh giá về nguồn lực của nền kinh tế có thể không phản ánh hết nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Theo nguyên tắc thường trú trong tính toán GDP thì GDP bao gồm cả phần thặng dư của các doanh nghiệp FDI , khoản này có thể được giữ lại cũng có thể các doanh nghiệp này chuyển lợi nhuận về công ty mẹ hoặc nước mẹ.
Từ khi Hệ thống các tài khoản Quốc gia (SNA) của Liên Hiệp Quốc được áp dụng ở Việt Nam, theo Quyết định 183-TTg của Chính phủ dường như chỉ duy nhất chỉ tiêu GDP được sử dụng và đề cập một cách phổ biến, các báo cáo của các cơ quan và cả các nghiên cứu chỉ bàn và phân tích về GDP.
Thực tế trong Hệ thống các tài khoản Quốc gia GDP không phải chỉ tiêu quan trọng nhất. Ngoài GDP còn các chỉ tiêu như thu nhập quốc gia (GNI – gross National income), thu nhập quốc gia khả dụng (NDI – National disposable income), thu nhập từ sở hữu, chi trả sở hữu, chuyển nhượng (cơ bản là kiều hối) và tiết kiệm (saving). Nguồn lực của nền kinh tế thực chất là chỉ tiêu tiết kiệm, tiết kiệm là nguồn lực cơ bản để tái đầu tư.
Về phía nguồn tiết kiệm = thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) – (trừ) tiêu dùng cuối cùng (của hộ gia đình và của Chính phủ); nếu tiết kiệm không đủ để đầu tư thì nền kinh tế phải đi vay.
Tổng cục Thống kê Việt Nam từ lâu không chỉ công bố chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) mà đã công bố số liệu về tổng thu nhập quốc gia và chi trả sở hữu thuần. Chuỗi số liệu này có từ năm 1990. Nhưng nghịch lý là hầu như không có ai sử dụng những chỉ tiêu quan trọng này trong phân tích tình hình bức tranh thực sự của nền kinh tế.
Trong GDP theo phương pháp thu nhập có 3 yếu tố cơ bản đó là thu nhập của người lao động, thặng dư sản xuất và thuế gián thu; theo nguyên tắc chỉ có 2 yếu tố là thu nhập của người lao động và thặng dư sản xuất tạo ra tăng trưởng. Như vậy yếu tố nào trong 2 yếu tố này của GDP tăng trưởng? Hay cả 2 yếu tố đều tăng trưởng?
Tuy nhiên cơ quan Thống kê Việt Nam chưa tính toán và công bố chính thức GDP theo phương pháp thu nhập nên yếu tố nào trong 2 yếu tố kể trên tăng giảm thế nào cũng là một câu hỏi cần giải đáp.
Số liệu Tổng cục Thống kê công bố ngày 24/4/2020 cho biết, đến giữa tháng 4 có 5 triệu lao động mất việc làm, tức là lao động giảm 9%, từ bảng cân đối liên ngành hệ số co giãn về lao động khoảng 0,7 và năng suất nhân tố tổng hợp tăng 5%, vốn đầu tư toàn xã hội giảm 2% thì GDP đến 4 tháng giảm khoảng 2%.
Tuy nhiên sang đầu tháng 5 nền kinh tế dần mở cửa trở lại mau chóng đi vào sản xuất và dòng vốn FDI sẽ “bùng nổ” vào 6 tháng cuối năm, như vậy về tăng trưởng GDP vẫn có thể đạt 3,5 đến 4% trong năm 2020.
Tăng trưởng GDP dẫn đến việc làm cho người lao động và tính sôi động của nền kinh tế nhưng tăng trưởng GDP dựa vào khu vực FDI cũng có thể làm nguồn lực của nền kinh tế thông qua tiết kiệm nhỏ lại trong trường hợp nguồn chuyển nhượng (kiều hối) gặp vấn đề.
Theo niên giám thống kê cho thấy, tỷ lệ giữa tổng thu nhập quốc gia (GNI) và tổng sản phẩm trong nước (GDP) ngày càng bị nới rộng. Nếu năm 2010 tỷ lệ giữa GNI và GDP là 97% thì đến năm 2018 tỷ lệ này chỉ còn 93%. Điều này cho thấy luồng tiền chảy ra nước ngoài thông qua chỉ tiêu chi trả sở hữu ngày càng nhiều, tăng trưởng bình quân chi trả sở hữu thuần trong giai đoạn 2010 - 2018 theo giá hiện hành là 29%, trong khi tăng trưởng GDP theo giá hiện hành bình quân giai đoạn này là 16%. Như vậy có thể thấy luồng tiền chảy ra nước ngoài tăng nhanh hơn tăng trưởng GDP lên đến 13 điểm phần trăm.
Năm 2018, theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê, chi trả sở hữu thuần trên 17 tỷ đô la Mỹ, nếu chỉ tính đến chi trả sở hữu con số này khoảng 18 tỷ đô la Mỹ. Phần nhiều trong khoản 18 tỷ đô la Mỹ này là khu vực FDI chuyển tiền về nước sau khi được hưởng mọi ưu đãi của phía Việt Nam. Ước tính chi trả sở hữu năm 2019 có thể trên 19 tỷ đô la Mỹ. Trớ trêu là tăng trưởng GDP đang phụ thuộc vào khu vực FDI. Điều này cho thấy một nghịch lý phải chăng càng tăng trưởng GDP càng khiến nguồn lực của nền kinh tế bị bào mòn.
Hiện nay chỉ tiêu thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) chưa được Tổng cục Thống kê tính toán và công bố chính thức. Ước tính từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính cho thấy NDI so với GDP năm 2013 là 113%, đến năm 2018 tỷ lệ này còn 110%.
NDI nếu trừ đi phần tiêu dùng cuối cùng của dân cư và chi thường xuyên của Chính phủ, sẽ được phần tiết kiệm (saving) của nền kinh tế. Theo ước tính, tiết kiệm của nền kinh tế trong GDP chiếm tỷ trọng cao hơn đầu tư thực hiện trênGDP, tuy nhiên khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng bị thu hẹp.
Năm 2013 tỷ lệ tiết kiệm so với GDP là 41% trong khi đầu tư so với GDP là 31%, khoảng cách giữa 2 tỷ lệ này là 10 điểm phần trăm; thì đến năm 2018, tỷ lệ tiết kiệm so với GDP còn36% trong khi tỷ lệ đầu tư so với GDP tăng lên 33% năm 2018, chênh lệch chỉ còn 3 điểm phần trăm.
Về nguyên tắc, tiết kiệm lớn hơn đầu tư cho thấy nguồn lực của nền kinh tế là ổn, tuy nhiên nguồn lực này ngày càng có xu hướng nhỏ đi.
Một nghịch lý là mặc dù tiết kiệm lớn hơn đầu tư nhưng nền kinh tế vẫn vay quá nhiều.
Theo Sách trắng công bố bởi Tổng cục Thống kê, bình quân tỷ lệ nợ phải trả/trên vốn chủ sở hữu của cả nền kinh tế tăng từ 2,1 giai đoạn 2011 - 2016 lên 2,5 năm 2017 (trong đó DNNN tăng từ 3,02 lên 4,24). Điều này chỉ có thể lý giải bởi hiện tượng tiết kiệm nhiều nhưng không đi vào khu vực sản xuất ở chu kỳ sản xuất sau.
Một nguyên nhân nữa khiến tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế so với GDP ngày càng nhỏ đi là do việc chi trả sở hữu ngày càng lớn khiến lượng kiều hối không thể bù đắp nổi.
Năm 2020, dịch Covid-19 hoành hành trên khắp thế giới và dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam sẽ tăng mạnh. Điều này có thể khiến chi trả sở hữu ra nước ngoài tăng lên và lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giảm đáng kể, ước tính lượng kiều hối giảm khoảng 30% có thể dẫn đến tỷ lệ thu nhập quốc gia GNI so với tổng sản phẩm trong nước (GDP) chỉ còn 90%, tỷ lệ thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) thấp hơn GDP và nguồn để tái đầu tư sẽ thiếu hụt trong chu kỳ sản xuất sau.
Nếu không tính đến kiều hối, tiết kiệm của nền kinh tế xấp xỉ đầu tư hàng năm, và đến 2015 trở lại đây tỷ lệ tiết kiệm nhỏ hơn tỷ lệ đầu tư.
Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP trong trường hợp không có kiều hối
Yếu tố niềm tin và nội lực
Nhìn lại quá trình vừa qua, với cách điều hành chống dịch của Chính phủ khiến người dân cảm động và tràn đầy hy vọng, nhưng khi thấy những cán bộ lợi dụng dịch bệnh và lợi dụng chính sách của Chính phủ để trục lợi có thể không ít người từ hy vọng sang trạng thái băn khoăn thậm chí thất vọng. Xin lưu ý rằng nền kinh tế có hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ sau dịch bệnh hay không phụ thuộc vào niềm tin của người dân (bao gồm doanh nghiệp).
Nghiên cứu cho thấy thực chất việc tăng trưởng GDP không quan trọng bằng việc vun đắp nội lực của nền kinh tế. Do đó các nhà hoạch định chính sách cần nhìn nhận và đánh giá nền kinh tế không chỉ từ chỉ tiêu GDP mà cần bao quát hơn nữa để đưa đất nước không chỉ có tăng trưởng GDP cao mà nội lực của đất nước ngày một mạnh mẽ.
Như vậy có thể thấy người Việt dù ở trong nước hay ngoài nước đều có những đóng góp cho qua trình phát triển đất nước, để nguồn lực của đất nước mạnh mẽ rất cần sự chung tay của cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới.