Tiếp theo Báo cáo đánh giá sơ bộ tác động của dịch bệnh Covid-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam (ngày 11/2/2020); Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV thực hiện Báo cáo cập nhật đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 và kịch bản tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020. Báo cáo tập trung vào bốn nội dung chính: (i) Tổng quát diễn biến đại dịch Covid-19 trên thế giới; (ii) Tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới năm 2020; (iii) Cập nhật đánh giá tác động và kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020; và (iv) Một số kiến nghị chính sách.
Tổng quát diễn biến đại dịch Covid-19
Từ ngày 8/12/2019, sự bùng phát của dịch Covid-19 tại Trung Quốc đã và đang tác động rất lớn tới kinh tế toàn cầu. Ngày 11/3/2020, WHO đã chính thức tuyên bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu. Đến nay, khi dịch tại Trung Quốc tạm lắng xuống, thế giới lại phải hứng chịu làn sóng bùng phát của dịch ("giai đoạn 2"), thậm chí còn tác động mạnh hơn so với "giai đoạn 1" từ Trung Quốc. Đặc biệt, từ cuối tháng 2/2020, dịch có diễn biến khó lường, nhiều nền kinh tế hàng đầu đã trở thành ổ dịch mới và có diễn biến rất phức tạp như Mỹ, EU (Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Đức,...v.v), Anh, Nhật Bản, Trung Đông, Trung Á,…v.v.
Tính đến ngày 10/4/2020, dịch bệnh đã lây lan tới 209 quốc gia và vùng lãnh thổ, với gần 1,6 triệu ca nhiễm và gần 95 nghìn ca tử vong (trong đó, chỉ trong vòng 1 tháng gần nhất, số ca nhiễm tăng gần 20 lần và số ca tử vong tăng 36 lần). Diễn biến dịch tại nhiều nước, đặc biệt là Mỹ, châu Âu, Anh hiện vẫn hết sức phức tạp; nhiều nước, thành phố phải áp dụng quyết liệt các biện pháp cách ly, phong tỏa, nhiều hoạt động kinh tế bị đình trệ. Các tổ chức và chuyên gia y tế đều chưa xác định được đỉnh ngoài Trung Quốc; cũng như chưa thể xác định được khi nào dịch bệnh sẽ được kiểm soát và kết thúc. Có thể thấy mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh vẫn tiếp tục trầm trọng, làm gián đoạn chuỗi cung ứng, sản xuất và tiêu thụ toàn cầu.
Tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới năm 2020
Tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới cả tổng cung và tổng cầu. Các hoạt động kinh tế - xã hội bị ngưng trệ do các lệnh phong tỏa, cách ly, hạn chế đi lại, phòng chữa bệnh, gián đoạn quá trình sản xuất – kinh doanh do thiếu hụt nguồn cung đầu vào cũng như bị "đóng băng" hoặc suy giảm mạnh đầu ra do sức cầu rất yếu.
Kinh tế thế giới đã chịu tác động tiêu cực và đã xuất hiện 6 dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra: (i) Tăng trưởng GDP sụt giảm mạnh, thậm chí tăng trưởng âm; (ii) Tình trạng thất nghiệp/số đơn xin trợ cấp tăng nhanh, đặc biệt là ở Mỹ; (iii) Thị trường chứng khoán tại nhiều nước giảm sâu từ 20-30%, chỉ số rủi ro (VIX) trên thị trường tăng đột biến - thể hiện niềm tin nhà đầu tư và sức khỏe doanh nghiệp ở mức rất thấp; (iv) Diễn biến giá dầu sụt giảm mạnh (trên 50%) do lo ngại về nhu cầu giảm mạnh; (iv) Giá vàng biến động mạnh, với biên độ dao động cao, thể hiện mức độ rủi ro và nhà đầu tư tìm kiếm kênh đầu tư an toàn hơn; (v) Chỉ số sản xuất tại hầu hết các nước suy giảm mạnh cho thấy ảnh hưởng của việc gãy chuỗi cung ứng, tạm dừng sản xuất, kinh doanh; và (vi) Thương mại toàn cầu và doanh số bán lẻ sụt giảm (thể hiện sức cầu tiêu dùng yếu ớt).
Về tăng trưởng kinh tế, nhiều nền kinh tế lớn và khu vực có chung xu hướng suy giảm, thậm chí chính thức bước vào giai đoạn suy thoái. Tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý 1 ước đạt 1,4% và dự báo tăng trưởng âm 2,3% trong quý 2, cả năm -0,5%, thấp hơn nhiều so với năm 2019 (tăng 2,3%). Trong khi đó, dự báo tăng trưởng kinh tế của EU, ở mức -0.6% (quý 1), -13,8% (quý 2) và -8,4% cả năm 2020; kinh tế Trung Quốc dự báo có mức tăng trưởng -8% trong quý 1/2020, +2,5% quý 2 và hồi phục tăng trưởng về mức 2,4% cả năm 2020 (Hình 1).
Hình 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và các nước Quý 1, dự báo Quý 2 và cả năm 2020 (%, yoy)
Nguồn: WB, IMF, ADB, CitiResearch, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV tổng hợp.
Về tình trạng thất nghiệp, theo số liệu công bố gần nhất, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu của Mỹ tăng nhanh lên 3,3 triệu và 6,6 triệu đơn trong 2 tuần cuối tháng 3 (so với mức trung bình 200 nghìn đơn mỗi tuần trong giai đoạn trước đó). Điều này cho thấy tác động mạnh của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế hàng đầu thế giới ngày càng rõ nét và có thể còn mạnh hơn trong thời gian tới .
Các chỉ số trên thị trường tài chính quốc tế biến động mạnh, cả về giá cổ phiếu và lợi tức trái phiếu. Dịch bệnh bùng phát mạnh càng khiến thị trường chứng khoán quốc tế giảm sâu do nhà đầu tư suy giảm niềm tin vào tình hình kinh tế vĩ mô và triển vọng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chỉ số DowJones, S&P500, Nasdaq của Mỹ giảm 20-30% so với đầu năm 2020; trái phiếu Mỹ cũng chứng kiến hiện tượng đường cong lãi suất đảo ngược khi lợi tức trái phiếu kỳ hạn 10 năm giảm về mức tương đương lợi tức trái phiếu kỳ hạn 2 năm. Thị trường chứng khoán ở các nước khác cũng sụt giảm với mức độ tương tự như tại Mỹ. Giá dầu sụt giảm khoảng 50-60% so với đầu năm. Giá một số hàng hóa cơ bản khác cũng giảm mạnh do nhu cầu thế giới suy giảm; trong khi chỉ số rủi ro (VIX-cũng là chỉ số đo lường sự sợ hãi) trên thị trường chứng khoán tăng đột biến, cao hơn cả mức tăng thời kỳ đại suy thoái 2008-2009.
Tình hình sản xuất suy giảm với chỉ số PMI tổng hợp toàn cầu giảm 6,1 điểm, xuống còn 46,1 điểm trong tháng 3. Đây là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 10/2001 và là mức thấp nhất kể từ cuộc đại suy thoái toàn cầu năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do chỉ số PMI tổng hợp của Trung Quốc giảm mạnh từ 51,9 điểm xuống 27,5 điểm tháng 3/2020 (mức thấp kỷ lục của Trung Quốc), cùng với chỉ số PMI tổng hợp giảm mạnh tại khu vực EU (từ 51,6 điểm trong tháng 2 xuống 31,4 điểm) và tại Mỹ (từ 50,7 điểm trong tháng 2 xuống 48,5 điểm) trong tháng 3/2020.
Thương mại toàn cầu cũng đang giảm mạnh. Suy thoái kinh tế cũng khiến tổng cầu hàng hóa – dịch vụ giảm mạnh, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của nhiều nước. WTO (8/4/2020) dự báo thương mại toàn cầu năm 2020 sụt giảm khoảng 13-32% so với năm trước, tùy mức độ và diễn biến dịch bệnh, do dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh tế và đời sống của người dân.
Cập nhật đánh giá tác động và kịch bản tăng trưởng kinh tế VN năm 2020
Ngày 11/2/2020, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã thực hiện Báo cáo đánh giá sơ bộ tác động của dịch bệnh Covid-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam với 3 kịch bản. Tại thời điểm thực hiện báo cáo đó, quy mô dịch trên thế giới và tại Việt Nam đều rất nhỏ khi mới chỉ có bùng phát tại tâm dịch Vũ Hán, Trung Quốc, lây lan sang Việt Nam với 16 ca nhiễm và ngay từ thời điểm đó, Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương của Việt Nam đã hết sức quyết liệt; các biện pháp cách ly, khoanh vùng được áp dụng kịp thời và có hiệu quả. Thời điểm đó, kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng chủ yếu từ Trung Quốc, đặc biệt là thiếu nguồn cung nguyên vật liệu khiến sản xuất Việt Nam đã ngưng trệ và một phần tổng cầu (chủ yếu là ngành du lịch, xuất khẩu nông sản…). Khi đó, các tổ chức quốc tế đã dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu giảm 0,1-0,3 điểm %, và của Trung Quốc giảm 0,5 điểm % năm 2020. Tại báo cáo đó, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã có đánh giá sơ bộ và theo kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP Việt Nam cả năm 2020 giảm khoảng 0,83 điểm % (tương đương với tăng trưởng khoảng 6%).
Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã bùng phát, lây lan và trở thành đại dịch toàn cầu; đồng thời, số ca nhiễm và số người bị cách ly tại Việt Nam cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 9/4/2020, Việt Nam có 255 ca nhiễm (204 ca là người Việt Nam), 128 ca khỏi bệnh; cách ly gần 80 nghìn người. Đến nay, WHO và cộng đồng quốc tế đánh giá rất tích cực về các biện pháp phòng, chống và kiểm soát dịch Covid-19 của Việt Nam về những thành công ban đầu. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp và Việt Nam không thể chủ quan, lơ là, nhưng cũng không phản ứng thái quá; giải bài toán tối ưu lúc này không phải là dễ.
Tại báo cáo đánh giá cập nhật này, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam đã rõ nét hơn, nghiêm trọng hơn nhiều so với các dự báo ban đầu. Tuy nhiên, bên cạnh một số ngành, lĩnh vực thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và bị suy giảm sâu, nhưng một số ngành, lĩnh vực sẽ có sự cải thiện đáng kể nhờ giao dịch trực tuyến và đẩy mạnh đầu tư công.
Về phương pháp luận, nhóm tác giả vẫn xem xét, tính đến cả 3 yếu tố: (i) Diễn biến của dịch bệnh, khả năng kiểm soát dịch và sản xuất vaccine, thuốc đặc trị chống lại virus SARS-Cov-2 của mỗi nước; (ii) Mức độ phù hợp, hiệu quả từ các chính sách, gói hỗ trợ của các nước; và (iii) hiệu quả hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch bệnh.
Theo đó, Nhóm tác giả tiếp tục đánh giá, dự báo tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam từ phía tổng cầu. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu có bổ sung 4 thành tố khác vào mô hình lượng hóa, gồm: du lịch trong nước (trong lĩnh vực du lịch); dịch vụ khác (như xây dựng, kinh doanh bất động sản, thông tin - truyền thông, hoạt động giúp việc hộ gia đình, cung cấp nước, xử lý rác thải,…) vì những lĩnh vực này có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng chung và ngành dịch vụ chịu tác động mạnh; chi tiêu công khi Chính phủ thực hiện nhiều gói hỗ trợ, tăng chi tiêu công cho các dịch vụ thiết yếu (đặc biệt là dịch vụ y tế); và đầu tư công và đầu tư tư nhân. Kết quả là có đến 8 nhóm ngành, lĩnh vực chính được tính toán, bao gồm: (i) Dịch vụ du lịch (lữ hành, lưu trú, ăn uống); (ii) Tiêu dùng cá nhân (bán lẻ), (iii) Chi tiêu công (bao gồm chi y tế, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội,…); (iv) Vận tải - kho bãi (v) Dịch vụ tài chính - ngân hàng; (vi) Các dịch vụ khác; (vii) Đầu tư (đầu tư Nhà nước, đầu tư tư nhân và FDI); và (viii) Xuất - Nhập khẩu. Kết quả tính toán theo 3 kịch bản được tổng hợp trong Bảng 1 dưới đây.
Ba kịch bản (cơ sở, tích cực và tiêu cực) đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam năm 2020 được cập nhật, tính toán trên 6 cơ sở: (i) Những diễn biến của dịch Covid trên thế giới và tại Việt Nam đến nay; (ii) Khả năng suy thoái kinh tế thế giới và các nền kinh tế hàng đầu như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,...v.v.; (iii) Sự phụ thuộc và tác động trong quan hệ kinh tế (thương mại, đầu tư, du lịch,...) giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, EU,...); (iv) Thực tiễn cơ cấu ngành và đóng góp vào GDP của các nhóm ngành, lĩnh vực; (v) Tính toán trên cơ sở ngành/lĩnh vực có số liệu và không bị trùng lắp; và (vi) Có so sánh với trường hợp nếu không có dịch Covid-19; có tham khảo, so sánh với mục tiêu, kế hoạch các quý và cả năm 2020 theo Nghị Quyết 01/NQ-CP ngày 1/1/2020 của Chính phủ.
Với kịch bản cơ sở, Nhóm tác giả nhận định, các biện pháp của Chính phủ trong phòng chống dịch cũng như các chính sách hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân tiếp tục phát huy hiệu quả, dịch bệnh tại Việt Nam nhiều khả năng được kiểm soát trong quý 2/2020 và các hoạt động kinh tế - xã hội sớm trở lại "bình thường" từ tháng 6 hoặc đầu tháng 7/2020. Tuy nhiên, một số ngành sẽ có sự hồi phục chậm hơn do còn phụ thuộc vào diễn biến dịch trên thế giới (dự báo hết quý 3/2020), tâm lý người tiêu dùng, cũng như sự thay đổi về cấu trúc chuỗi sản xuất và tiêu thụ.
Theo đó, lợi nhuận ngành du lịch của Việt Nam năm 2020 dự báo giảm khoảng 35%; tiêu dùng cá nhân (bán lẻ) giảm khoảng 3% so với trường hợp không có dịch bệnh; nhưng Chính phủ tăng chi ngân sách cho các lĩnh vực, đặc biệt là y tế, ít nhất là khoảng 62 nghìn tỷ đồng, tương đương với khoảng 1%GDP (chưa kể các khoản huy động từ nguồn xã hội hóa khác). Lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi giảm khoảng 3% (chủ yếu giảm tại phân ngành vận tải hành khách hàng không, dự báo giảm 35-40% cả năm 2020). Tương tự, doanh thu ngành tài chính – ngân hàng giảm khoảng 3%. Lĩnh vực đầu tư có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi niềm tin của nhà đầu tư phụ thuộc lớn vào diễn biến dịch, nhưng đầu tư công và đầu tư tư nhân sẽ tăng mạnh mẽ hơn và có thể có sự dịch chuyển nhẹ về đầu tư thêm cho các ngành sản xuất, dịch vụ tiêu dùng nội địa. Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu giảm khoảng 5-8%. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 giảm từ 1,8-2 điểm %, tương đương với mức tăng trưởng cả năm từ 4,81- 5,01% (trong đó, quý 1 đạt mức tăng trưởng 3,82%; quý 2 dự báo tăng 3,45-3,67%; 6 tháng đầu năm dự báo tăng 3,81-4,05%).
Với kịch bản tích cực, các nước trên thế giới đạt được kết quả tích cực trong phòng, chống dịch bệnh, các biện pháp phong tỏa, cách ly không bị kéo dài (đỉnh dịch tại Mỹ và châu Âu rơi vào cuối tháng 4 đến nửa đầu tháng 5, sau đó Mỹ và châu Âu có thể khống chế dịch trong tháng 6/2020), và đại dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát vào giữa quý 3/2020; hoạt động sản xuất - kinh doanh sớm hồi phục từ cuối quý 3. Còn tại Việt Nam, với giả định, dịch Covid-19 sẽ được kiểm soát cơ bản trong tháng 4/2020 hoặc giữa tháng 5/2020; hoạt động sản xuất – kinh doanh được khởi động ngay sau đó. Khi đó, doanh thu du lịch năm 2020 dự báo giảm khoảng 30% so với mức không có dịch bệnh; tiêu dùng cá nhân giảm nhẹ (-2%), song Chính phủ tăng chi tiêu công khoảng 1%. Lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi chỉ giảm nhẹ 1-2%; đầu tư tuy có gặp khó khăn nhưng môi trường đầu tư được đảm bảo, giải ngân FDI giảm nhẹ (-1%), đầu tư công và đầu tư tư nhân tăng nhẹ 2%; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu giảm hơn 3%. Theo kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 giảm khoảng 1,4 điểm % và đạt mức 5,4-5,6%.
Với kịch bản tiêu cực, dịch bệnh bùng phát, đại dịch không được kiểm soát đến hết quý 3, bất chấp nỗ lực ứng phó của Chính phủ các nước. Còn tại Việt Nam, dịch bệnh được kiểm soát trong quý 2, nhưng chịu tác động tiêu cực từ tổng cung và tổng cầu từ bên ngoài. Khi đó, dự báo du lịch Việt Nam giảm đến 60% so với mức không có dịch bệnh; tiêu dùng cá nhân giảm mạnh (-4%) và Chính phủ tăng chi tiêu công (+2%). Lợi nhuận ngành vận tải – kho bãi giảm 10% (trong đó, vận tải hành khách hàng không giảm 65-70%); đầu tư bị giảm mạnh do tâm lý e ngại tăng, giải ngân FDI giảm từ 7-8%, đòi hỏi sự đầu tư mạnh hơn từ đầu tư công và đầu tư tư nhân nhằm giảm thiểu thiệt hại kinh tế; xuất-nhập khẩu giảm 8-10%. Theo kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam giảm khoảng 2,58 điểm %, đạt mức 4,07-4,42% năm 2020.
Như vậy, tùy theo diễn biến và khả năng kiểm soát đại dịch Covid-19 tại Việt Nam và trên thế giới, kinh tế Việt Nam năm 2020 theo kịch bản cơ sở có thể đạt mức tăng trưởng 4,81%-5,01% (hoặc từ 4,07% - trường hợp xấu nhất đến khoảng 5,6% - trường hợp tích cực nhất).
Kết quả lượng hóa này của Nhóm tác giả cũng khá tương đồng với kết quả dự báo gần đây nhất (đầu tháng 4/2020) của các tổ chức quốc tế. Theo đó, World Bank (4/2020) dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,9% năm 2020 nhưng hồi phục nhanh và tăng trưởng 7,5% năm 2021 và 6,5% năm 2022. Tương tự, ADB (4/2020) dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức 4,8% năm 2020 và sẽ bật tăng trở lại về mức 6,8% năm 2021.
Một số kiến nghị chính sách
Qua đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế Việt Nam, theo Nhóm tác giả, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8%, lạm phát được kiểm soát dưới 4% trong năm 2020 sẽ rất khó khả thi (nhất là đối với mục tiêu tăng trưởng). Tuy nhiên, việc Việt Nam phấn đấu đạt được mục tiêu kép: "phòng chống dịch Covid-19 thành công và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội ở mức khả quan tối đa, như tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%, kiểm soát lạm phát CPI dưới 4%" coi như là rất thành công và đáng ghi nhận. Để làm được điều này, Nhóm Nghiên cứu kiến nghị một số giải pháp.
Năm giải pháp ngắn hạn:
(i) Nhóm tác giả của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV tiếp tục cho rằng, nhiệm vụ ưu tiên số 1, quan trọng hàng đầu hiện nay vẫn phải là phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả; bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
(ii) Tập trung đẩy nhanh tiến độ phê duyệt và triển khai các gói hỗ trợ mà Chính phủ đang tập trung chỉ đạo; nhất là gói hỗ trợ về tài khóa (khoảng 180.000 tỷ đồng, theo tinh thần Nghị định 41/2020/NĐ-CP ban hành và hiệu lực từ ngày 8/4/2020); gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng (lên đến 300.000 tỷ đồng thuộc diện cho vay mới và cơ cấu lại nợ, giãn hoãn nợ, giảm lãi/phí đối với dư nợ cũ khoảng 926.000 tỷ đồng; chính sách giảm lãi suất, điều hành kiểm soát lạm phát, tỷ giá…); gói hỗ trợ an sinh xã hội (khoảng 62.000 tỷ đồng, cho hơn 20 triệu người lao động, người yếu thế…); và các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự trong bối cảnh hiện nay và sắp tới.
(iii) Thủ tục hành chính cần được giảm thiểu tối đa cùng với ứng dụng CNTT trong khâu hướng dẫn, tổ chức thực hiện các gói hỗ trợ này, nhằm đảo bảo phần hỗ trợ quý báu sớm đến được với người dân, doanh nghiệp một cách đúng, trúng và hiệu quả.
(iv) Đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công, như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn.
(v) Song song với việc phòng chống dịch hiệu quả; cần nghiên cứu và cập nhật kịch bản phát triển kinh tế - xã hội năm 2020; cần có ngay những chính sách, biện pháp để khôi phục lại sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, người dân ngay sau khi dịch bệnh được kiểm soát tại Việt Nam. Theo Nhóm tác giả, Chính phủ có thể cân nhắc thành lập Ban chỉ đạo phục hồi kinh tế sau dịch bệnh, giúp việc cho Chính phủ trong việc phân tích, đánh giá trên cơ sở có số liệu, khoa học để đưa ra quyết định phạm vi và lộ trình cách ly như thế nào, điểm tối ưu giữa phòng chống dịch bệnh và khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội ra sao.
Bảy giải pháp mang tính dài hạn:
(i) Việc nghiên cứu, lập và thực thi chiến lược đa dạng hóa thị trường và đối tác (cả thương mại và đầu tư) là cấp bách, nhằm hạn chế tối đa việc phụ thuộc quá nhiều vào một hoặc một vài thị trường hay đối tác, cũng là chiến lược phân tán rủi ro theo thông lệ;
(ii) Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế (nhất là ba trụ cột đã xác định); tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chất lượng, sáng tạo, bao trùm và bền vững; trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm làm chủ một số yếu tố đầu vào vừa là hạn chế nhập khẩu, vừa tăng tính chủ động trong nhiều tình huống khác nhau, vừa tạo việc làm và tăng khả năng kết nối giữa các khối doanh nghiệp. Cùng với đó, đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp một cách hiệu quả, lâu dài gắn kết chặt chẽ với phát triển nông thôn mới, hợp tác xã kiểu mới và quá trình đô thị hóa là rất quan trọng;
(iii) Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài nhờ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước; tăng yêu cầu, quy định về an toàn thực phẩm, quy định xuất xứ đối với hàng hóa (đặc biệt là hàng tiêu dùng, nông thủy sản,…) nhập khẩu vào Việt Nam;
(iv) Cần có chiến lược dài hạn về cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, để từ đó có kế hoạch, lộ trình thực hiện từng năm (thay vì ban hành nghị quyết từng năm như hiện nay);
(v) Đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ và giao dịch điện tử, thanh toán điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp;
(vi) Tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, nhất là về nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D), gồm cả nghiên cứu sản xuất thuốc, dược phẩm, dược liệu và vaccine phòng và thuốc đặc trị bệnh Covid-19 phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam;
(vii) Cần có đánh giá, báo cáo tổng hợp, rút kinh nghiệm về dịch bệnh; thống kê thiệt hại, chi phí, tác động…v.v. đối với kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở tham khảo đối với những trường hợp tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Đồng thời, những bài học hay, cách làm hay, hiệu quả trong quá trình phòng, chống dịch bệnh cần được lưu lại dưới dạng qui trình, sổ tay để thống nhất áp dụng sau này. Quan trọng hơn cả là làm sao để hạn chế rủi ro dịch bệnh. Theo đó, bảo vệ môi trường, động vật quý hiếm, giáo dục giữ gìn vệ sinh cá nhân, rèn luyện thân thể, tạo nếp sống lành mạnh cần đưa thành quốc sách, ưu tiên hàng đầu, thay vì chữa chạy.