Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng một ngành ngân hàng lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia bền vững được đánh dấu bởi những bước tiến đáng kể trong việc tái cấu trúc ngành ngân hàng, giảm số lượng ngân hàng yếu kém, nâng cao năng lực của các ngân hàng thương mại (NHTM) đặc biệt là về chất lượng tài sản, khả năng sinh lời, hệ số an toàn vốn và năng lực quản trị. Trong khuôn khổ đó, năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 51/NQ-CP về thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị, trong đó có nhấn mạnh đến 2020, các NHTM triển khai áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II.
Từ cách đây 5 năm, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã chủ động xây dựng lộ trình triển khai và áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM, trong đó có việc lựa chọn 10 ngân hàng thương mại thí điểm áp dụng Basel II. Và theo quy định tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN (thông tư 41), áp dụng Basel II là yêu cầu tất yếu đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), và kể từ 01/01/2020, các ngân hàng sẽ phải chính thức áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn Basel II.
Việc triển khai Basel II được coi là giải pháp tái cơ cấu căn bản có tính đột phá, tạo nền tảng cho sự an toàn, phát triển lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Mới một nửa số các ngân hàng tại Việt Nam chạm được Basel II
Cuối tháng 11/2018, VIB và Vietcombank là hai ngân hàng đầu tiên được thống đốc trao quyết định được áp dụng Basel II trước thời hạn. Từ đó tới nay, ngành ngân hàng đã chứng kiến những biến chuyển mạnh mẽ của nhóm các ngân hàng TMCP tư nhân và một số ngân hàng nước ngoài trong việc chạy nước rút để tuân thủ với Basel II.
Đến nay, chỉ còn 20 ngày nữa thời hạn áp dụng của thông tư 41/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sẽ có hiệu lực, tính đến thời điểm này đã có 15 ngân hàng trong nước và 2 ngân hàng nước ngoài được áp dụng trụ cột 1 của chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế Basel II.
17 ngân hàng đã áp dụng trụ cột 1 của Basel II đến ngày 10/12/2019
Như vậy trong số những cái tên kể trên còn thiếu vắng các "ông lớn" ngân hàng là BIDV, VietinBank và Agribank, trong khi không ít những ngân hàng cổ phần tư nhân lớn cũng chưa thể góp mặt.
Và theo nguồn tin của chúng tôi, trong số 17 ngân hàng nói trên, cho đến thời điểm này chỉ duy nhất 1 ngân hàng đã hoàn thành cả 3 trụ cột của Basel II và chuẩn bị công bố. 16 ngân hàng còn lại chỉ mới hoàn thành hoặc trụ cột 1 (mức độ vốn an toàn tối thiểu) hoặc trụ cột 1 và trụ cột 3 (minh bạch và kỷ luật thị trường).
3 trụ cột của Basel II quan trọng thế nào với ngân hàng?
Basel II có ba trụ cột chính (Three Pillars). Trong đó, Pillar I: Yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR); Pillar II: Rà soát giám sát; và Pillar III: Thực hiện các nguyên tắc thị trường. Áp dụng Basel II giúp tăng cường năng lực tài chính, tăng cường quản trị rủi ro của ngân hàng. Việc tuân thủ được các chuẩn mực theo Basel không dễ, đòi hỏi ngân hàng không chỉ về nhân lực, vật lực mà cả trình độ quản trị điều hành.
Tại Việt Nam, Chuẩn mực vốn Basel II được quy định theo thông tư 41/2016-NHNN và thông tư 13/2018/TT-NHNN. Theo đó, trụ cột 1 quy định mức an toàn vốn tối thiểu theo phương pháp tiêu chuẩn và phương pháp nâng cao cho rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.
Trụ cột 1 – mức độ vốn an toàn tối thiểu Basel II theo quy định của thông tư 41
Trụ cột 2 là đánh giá nội bộ về mức độ đủ vốn, ở đó các ngân hàng phải chuẩn hóa quy trình, phương pháp, công cụ đo lường rủi ro, đồng thời phải kiểm tra sức chịu đựng về vốn, lập kế hoạch vốn theo các kịch bản thị trường và kinh doanh, giám sát về mức đủ vốn.
Trụ cột 2 – Khung quản trị rủi ro ICAAP Ví dụ của 1 NHTMCP đã hoàn thiện trụ cột 2
Các bước triển khai của trụ cột 2 bao gồm: cơ cấu quản trị ICAAP, đánh giá rủi ro trọng yếu, kiểm tra sức chịu đựng, lập kế hoạch vốn, giám sát mức đủ vốn và rà soát quy trình. Áp dụng ICAAP vào hoạt động kinh doanh bao gồm việc phân bổ vốn theo chiến lược kinh doanh, RAROC & Định giá theo mức độ rủi ro.
Quy trình triển khai ICAAPVí dụ của 1 NHTMCP đã hoàn thiện trụ cột 2
Trụ cột thứ ba là kỷ luật thị trường, theo đó các ngân hàng phải báo cáo và thuyết minh định kỳ về các chỉ tiêu định tính và định lượng về an toàn vốn.
Trụ cột này tập trung vào việc minh bạch và công bố thông tin. Các NHTM cần công bố thông tin một cách định kỳ và minh bạch, Nội dung công bố thông tin cần đáp ứng yêu cầu của NHNN, ngoài ra nên tham khảo đến các chuẩn mực tốt nhất trên thế giới.
Các hạng mục công bố thông tin chính bao gồm:
-Tổng quan: Giới thiệu về Basel II và nội dung công bố thông tin
-Hệ số an toàn vốn: Các yếu tố định tính, định lượng, phương pháp quản trị và tính toán
-Vốn tự có: Cấu trúc vốn tự có và tình hình vốn tự có
-Rủi ro tín dụng: Chính sách quản trị rủi ro tín dụng, tài sản có rủi ro tín dụng, thông tin về sử dụng xếp hạng tín nhiệm, tài sản có rủi ro theo ngành, giảm thiểu rủi ro tín dụng
-Rủi ro hoạt động
-Rủi ro thị trường
-Các thông tin chung: giới thiệu về tổ chức, các hệ số an toàn của tổ chức, phương pháp công bố thông tin và cam kết của ban lãnh đạo.
Khó khăn ở đâu?
Tại buổi tọa đàm về áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các NHTM được tổ chức mới đây, ông Lê Trung Kiên - Phó Vụ trưởng Vụ 2, Cơ quan Thanh tra Giám sát, NHNN Việt Nam cho biết, những thách thức trong việc triển khai Basel II ở Việt Nam, một phần xuất phát từ sự biến đổi nhanh chóng của môi trường kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính hiện nay. Bởi mỗi cuộc khủng hoảng tài chính đều đem lại những yếu tố mới, ủy ban Basel rút ra được những bài học và sau đó sẽ cập nhật những chuẩn mực về an toàn vốn phù hợp hơn. Do vậy, các NHTM tại Việt Nam và ngay cả NHNN phải luôn luôn chủ động và linh hoạt đối với các chuẩn mực vốn mới.
Tiếp theo, môi trường cạnh tranh ngày càng cao khiến các ngân hàng cần phải phát triển thêm hoạt động mới, sản phẩm mới, phân khúc thị trường mới, ứng dụng công nghệ mới trong khi việc quản lý rủi ro, tính toán tài sản có theo rủi ro trở nên phức tạp hơn và tiềm ẩn nhiều bất cập.
Môi trường pháp lý cũng chưa đồng bộ, chưa áp dụng đầy đủ theo các thông lệ quốc tế cũng khiến cho việc áp dụng Basel II chưa được thuận lợi. Ví dụ như các quy định về quản lý rủi ro, Quy định về chuẩn mực kế toán liên quan đến hạch toán kế toán nợ xấu, trích lập dự phòng..., quy định về xử lý tài sản bảo đảm…
Ngoài ra, thị trường chính thức (công cụ tài chính, bất động sản ...) ở Việt Nam chưa phát triển nên việc xác định giá trị tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường, trạng thái rủi ro tín dụng đối tác, sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro còn gặp nhiều khó khăn, chưa khả thi.
Cơ sở dữ liệu (độ sâu, độ rộng, chất lượng) còn bất cập so với các tiêu chuẩn quốc tế dẫn đến việc xây dựng các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, xây dựng các mô hình rủi ro chưa đảm bảo tính chính xác. Theo đánh giá của ông Kiên, tại Việt Nam, cơ sở dữ liệu của toàn hệ thống chỉ đáp ứng khoảng 50% yêu cầu. Tại Việt Nam hiện nay cũng chưa hình thành các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, số lượng khách hàng có xếp hạng tín nhiệm không đáng kể so với quy mô toàn thị trường.
Giải pháp nào thúc đẩy Basel II?
Đứng trước những khó khăn như vậy, theo quan điểm của giới chuyên gia, cần phải có sự vào cuộc đồng bộ của các ngân hàng và sự hỗ trợ của cơ quan quản lý.
Từ góc độ các ngân hàng thương mại, cần có sự đồng thuận tuyệt đối của cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành trong việc tuân thủ Basel II và hướng đến một mô hình quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro tiên tiến và minh bạch. Các ngân hàng phải đảm bảo việc đầu tư cho Basel II và Basel III được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản. Dự kiến lộ trình này sẽ được thực hiện không dưới 8 năm, với một lượng chi phí đáng kể nhưng đổi lại, sẽ mang lại cho các ngân hàng một hiệu quả kinh doanh bền vững.
Các ngân hàng cũng cần đảm bảo đủ vốn cho Basel II; Đảm bảo cơ sở dữ liệu sạch, chất lượng, tin cậy; Đảm bảo các hệ thống công nghệ vững mạnh, tương tác tốt với nhau, công cụ đo lường CAR chất lượng, tin cậy; và đảm bảo nguồn lực nhân sự đủ trình độ, số lượng, có kiến thức chuyên môn, kiến thức rủi ro và công nghệ đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Từ góc độ cơ quan quản lý, cần có sự hỗ trợ hành lang pháp lý cho các quy định quản lý mới trong quá trình hội nhập, như quy định bắt buộc về xếp hạng tín nhiệm, quy định về sản phẩm phái sinh, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)…Ngoài ra cần có cơ chế khuyến khích và dỡ bỏ dần những quản lý hành chính về room tín dụng, điều kiện phát triển mạng lưới… cho các ngân hàng tuân thủ cả 3 trụ cột Basel II và áp dụng sớm Basel II.