- Trong vai trò chủ nhà, ông có thể cho biết Việt Nam đã chuẩn bị như thế nào cho APEC CEO Summit 2017?
Chúng ta đã chủ động đưa ra chương trình, nội dung để các thành viên ABAC cùng nhau xây dựng lộ trình, khuyến nghị mang dấu ấn Việt Nam và đặc biệt, Việt Nam đã tổ chức thành công, chu đáo 4 cuộc họp. Hội nghị sắp tới là Doing Business in Việt Nam, Hội nghị CEO Summit và Đối thoại với các nhà lãnh đạo. Đây là những dấu ấn của năm APEC VN 2017.
Chưa lần nào Hội nghị ABAC có sự tham gia đông đủ như hiện nay. Hội nghị CEO Summit cũng có các nguyên thủ đến tham dự. Về phần các doanh nghiệp, gần 2.000 đại biểu trong và ngoài nước đã đăng ký tham dự. Trong lịch sử 28 năm của APEC, đây là lần đầu tiên đội ngũ các CEO thế giới quy tụ lại đất nước ta nhiều đến vậy.
- Theo ông, đại biểu từ các nền kinh tế tham dự APEC 2017 kỳ vọng gì về Việt Nam?
Việt Nam có đầy đủ tiềm năng để phát triển. Ví dụ: vị trí địa lý, nguồn nhân lực, ổn định về chính trị, tài nguyên thiên nhiên. Cái chúng ta thiếu là chính sách để nuôi dưỡng doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Chỉ có doanh nghiệp tư nhân phát triển thì đất nước mới phát triển. 97% doanh nghiệp ở châu Á – Thái Bình Dương (APEC) là doanh nghiệp tư nhân và họ trưởng thành từ nhỏ và dần dần lớn lên.
Chúng ta vừa có nghị quyết TƯ 5, coi trọng doanh nghiệp tư nhân. Trước đây, chúng ta tập trung quá nhiều vào DNNN. Bây giờ chúng ta mới nhận ra Doanh nghiệp tư nhân là đầu tàu, có vai trò trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta thiếu kinh nghiệm, chính sách. Thay đổi tư duy mất 30 năm. Tôi hy vọng, từ tư duy thay đổi đến hành động sẽ ngắn hơn nhiều để doanh nghiệp và người dân được hưởng lợi.
- Việt Nam đóng góp như thế nào với chương trình nghị sự của APEC trong vai trò quốc gia chủ nhà?
Chúng ta đã xây dựng chủ đề ngay từ đầu và cùng các nền kinh tế xây dựng các khuyến nghị theo lộ trình của Việt Nam. Chúng tôi cũng phối hợp rất chặt chẽ với Các quan chức Cao cấp (SOM) để đưa những ý tưởng của của mình ra cộng đồng doanh nghiệp và từ cộng đồng doanh nghiệp phản ánh lại chính sách với chính phủ.
Chúng tôi tham dự tất cả các cuộc họp của SOM và các bộ trưởng để phản ánh kiến nghị của doanh nghiệp đến các quan chức, phản ánh khó khăn của doanh nghiệp để Chính phủ đưa ra những biện pháp. Sáng 7/11, tôi dự hội nghị CSOM, các quan chức Chính phủ đánh giá rất cao những sáng kiến, đóng góp của cộng đồng ABAC.
- ABAC tập trung vào những khuyến nghị nào để trình lên các nhà lãnh đạo APEC?
Khuyến nghị quan trọng nhất là tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới. Chỉ có giảm hàng rào thuế quan, bảo hộ, tạo điều kiện để thương mại và đầu tư phát triển, di chuyển con người,... thì kinh tế mới phát triển. Mục tiêu của chúng ta là hướng đến WTO và mục tiêu Bogor 2020. Hiện nay, mục tiêu đó khó hoàn thành nên cũng khuyến nghị các Bộ trưởng thương mại gặp nhau ở Argentina tháng 11 này cố gắng đẩy nhanh tiến trình trao đổi.
Chúng tôi khuyến khích tham gia khu vực mậu dịch tự do, đặc biệt là TPP và RCEP…, khuyến nghị nối lại vòng đàm phán về TPP, giảm được thủ tục hành chính, thuế quan thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển.
Một số nền kinh tế muốn bảo hộ nhưng thực tế chứng minh rằng, những nền kinh tế như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản càng mở rộng thì càng phát triển. Nếu càng đóng cửa thì kinh tế càng tụt hậu.
- Tương lai TPP 11 như thế nào khi APEC được tổ chức ở Việt Nam?
TPP là thành tựu 5 năm đàm phán mà chúng tôi đã rất hy vọng Quốc hội thông qua. Nhưng rất tiếc năm ngoái Mỹ quyết định rút ra. Tháng 5 vừa rồi tại Hội nghị Bộ trưởng thương mại, với khuyến nghị của doanh nghiệp, chúng ta đã nối lại đàm phán và kêu gọi 11 nền kinh tế thành viên thông qua nhằm tạo động lực để các thành viên khác tham gia và rất hy vọng sau này Mỹ sẽ tham gia. Hiện tại, các bên đang đề nghị Nhật Bản đứng đầu quá trình này.
Mỗi Hiệp định thương mại đòi hỏi một loại giấy tờ, thủ tục. Hiện nay, ở châu Á – Thái Bình Dương có 22 Hiệp định thương mại tự do và 19 cái nữa chuẩn bị ra. Doanh nghiệp phải làm các thủ tục này sẽ rất tốn kém, đặc biệt doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm, tiền, khả năng để thực hiện. Nếu bây giờ chỉ có 1 loại thủ tục thì sẽ rất thuận lợi.
Mục tiêu của chúng tôi là hướng tới tự doa hóa thương mại, mậu dịch, đầu tư, trong đó hướng tới WTO. Tuy nhiên, WTO đàm phán đã quá lâu và không thực hiện được nên chúng ra đưa ra TPP và FTAAP và mục tiêu đến 2025 là khu vực này sẽ là khu vực mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương trước WTO.
- Với những người bị ảnh hưởng bởi tự do hóa thương mại thì sao, thưa ông?
Thông thường ở những nước chậm phát triển như Việt Nam thường là xu hướng đóng cửa để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, 1995 chúng ta tham gia ASEAN, 1998 tham gia APEC và 2005 tham gia WTO thì thấy rằng chúng ta càng hội nhập thì chúng ta càng phát triển, doanh nghiệp càng phát triển, người dân được hưởng lợi nhiều.
Tuy nhiên, ở những nền công nghiệp phát triển thì họ lại có xu hướng bảo hộ trong nhưng những nước nhỏ như Việt Nam lại muốn mở cửa. Càng ngày Việt Nam càng hội nhập và liên quan nhiều với xuất nhập khẩu, buôn bán và đầu tư.
Ví dụ, cách đây 30 năm chưa có đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Đến ngày hôm nay có 20.000 doanh nghiệp đang đầu tư, tạo ra hàng triệu công ăn việc làm và đóng thuế, chiếm 25% GDP, 35% sản lượng công nghiệp và 70% xuất khẩu. Nó còn tạo ra cách mạng trong suy nghĩ của lãnh đạo, nhà quản lý, nhà doanh nghiệp.
Chúng ta phải chịu áp lực cạnh tranh và chịu áp lực cạnh tranh thì chúng ta mới phát triển được. Tất nhiên sẽ có một số doanh nghiệp phá sản. Nước Mỹ có 25 triệu doanh nghiệp với số dân 330 triệu, mỗi năm họ có thêm 1 triệu doanh nghiệp mới và 600.000 doanh nghiệp chết đi. 400.000 doanh nghiệp còn lại sẽ phát triển khỏe mạnh.
- Việc có những nền kinh tế quay trở lại với chủ nghĩa bảo hộ sẽ tác động ra sao tới chương trình nghị sự?
Dù các vị lãnh đạo từng nền kinh tế có quan điểm khác nhau nhưng giới doanh nghiệp chúng tôi luôn luôn khuyến nghị Chính phủ mở cửa, tự do hóa mậu dịch, đầu tư. Khuyến khích mọi người tự do hóa đi lại thì thương mại, đầu tư phát triển. Đặc biệt hiện nay chúng ta có công nghệ số và Internet. Đây là biện pháp rất nhanh để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước chậm phát triển theo kịp thế giới.
- Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng phát triển của các doanh nghiệp số và kinh tế mạng ở Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đang được nhắc tới rất nhiều?
Trong năm nay, các thành viên ABAC sẽ thành lập thêm 1 nhóm nghiên cứu về công nghệ số và sẽ triển khai việc đó ở Papua New Guinea vào sang năm. Chúng ta phải có rất nhiều việc phải làm ví dụ như hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, thông suốt, không biên giới, từ nước này sang nước khác đều áp dụng được. Thứ hai là phải xây dựng hạ tầng CNTT thông suốt, nhanh nhạy, tốc độ cao. Thứ ba là phải có nguồn nhân lực. Nó đòi hỏi sự phát triển đồng bộ giữa Chính phủ và doanh nghiệp cùng bắt tay với nhau để cùng làm.
Doanh nghiệp kiến nghị, Chính phủ lắng nghe và cùng hợp tác để cùng thực hiện thì mới phát triển nhanh. Không có sự gắn kết giữa Chính phủ và doanh nghiệp thì rất khó phát triển.