Với việc thị trường 6 nước cung ứng hàng hoá dệt may ở Nam Á và Đông Nam Á bị ngưng trệ sản xuất do dịch Covid-19 có thể là một chỉ dấu trong ngắn hạn quý 2 -3/2021 các doanh nghiệp may sẽ có nhiều đơn hàng, nếu Việt Nam tiếp tục duy trì được việc kiểm soát dịch bệnh như thời gian qua, quan điểm của ông Lê Tiến Trường - Chủ tịch HĐQT Vinatex.
Tuy vậy, việc có cả những dấu hiệu dịch bệnh chưa được kiềm chế tại châu Âu cũng lại có khả năng làm ảnh hưởng tiêu cực đến tổng cầu hàng hoá dệt may, cũng như việc nền kinh tế phục hồi chậm ở Nhật Bản cũng không cho dự báo sáng sủa về phục hồi cầu ở đây.
Kịch bản thị trường phải tới năm 2023 mới quay lại như năm 2019 có vẻ như đang có xác suất xảy ra cao hơn. Điều này khiến cho chưa có một dự báo trung và dài hạn của thị trường, mọi diễn biến đều đang xoay trong chu kỳ 3 - 6 tháng và thị trường còn rất nhạy với diễn biến dịch bệnh toàn cầu cả về phía cung và phía cầu.
Riêng thị trường sợi vừa phục hồi được khoảng 5 tháng lại đã có những dấu hiệu trầm lắng, giao dịch mua giảm trên 10% cả về số lượng và giá trong khi giá bông và xơ polyester lại diễn biến theo chiều ngược lại với mức tăng trên 5% trong một tháng qua, biên lợi nhuận ngành sợi đang dần trở về mức bình quân dài hạn khoảng 2-3% doanh thu. Năng lực sản xuất Vải nhỏ dẫn tới chưa đủ sức cung cấp cho khách hàng lớn, chủ yếu vẫn làm nội địa và khách hàng xuất khẩu nhỏ nên đóng góp cả về phương diện doanh thu lẫn hiệu quả đều không đáng kể.
Với những diễn biến như vậy, ông Trường nhấn mạnh nhiệm vụ của 2 nhóm doanh nghiệp may và sợi trong quý 2/2021 cần:
+ Với doanh nghiệp may: Lựa chọn một "thực đơn" đơn hàng tối ưu để tối đa hoá năng suất và hiệu quả trong điều kiện cầu vượt cung. Ngắn hạn, tình trạng đơn hàng nhiều hơn so với năng lực sản xuất có thể được duy trì do ảnh hưởng của dịch bệnh ở Nam Á và bất ổn chính trị ở Myanmar, do đó lựa chọn làm đơn hàng nào trở thành bài toán "cân não" với nhà quản lý. Cơ hội đạt được hiệu quả tốt cho ngành May có trong quý II nhưng có thể không kéo dài.
+ Với doanh nghiệp sợi: Nguyên liệu lên giá, thành phẩm xuống giá, do đó quản trị tồn kho nguyên liệu và nhất là kiên định mục tiêu chuyển đổi mô hình kinh doanh sang có 30 - 40% năng lực sản xuất phải phục vụ trong chuỗi cung ứng, kể cả trong và ngoài nước là giải pháp chính yếu.
Điểm lại ngành, lần đầu tiên sau một năm 2020 luôn có kết quả từng quý thấp hơn 2019, quý 1/2021 đã chứng kiến sự phục hồi khá tốt của ngành dệt may Việt Nam với tăng trưởng đạt 9,6%, bù lại được mức suy giảm của năm qua, trong bối cảnh tổng nhu cầu nhập khẩu thế giới chỉ phục hồi nhẹ và còn khá xa so với năm 2019. Quan trọng nhất là hiệu quả sản xuất kinh doanh được cải thiện nhanh hơn tốc độ phục hồi doanh thu, cho thấy các nỗ lực và giải pháp của giai đoạn Covid-19 năm 2020 tiếp tục phát huy tác dụng trong quản trị doanh nghiệp.
Tại Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Tập đoàn), với việc ngành sợi có quý 1 khởi sắc cả về số lượng đơn hàng và hiệu quả sau 24 tháng kinh doanh dưới giá thành đã góp phần quan trọng cho việc tăng trưởng hiệu quả lên trên 28% so với cùng kỳ, vượt cả mức trước dịch của quý 1/2019. Trong khi đó, ngành may có đủ việc làm đến hết 6 tháng đầu năm nhưng vẫn là các đơn hàng cơ bản, đơn giá tiếp tục duy trì ở mức thấp. Hàng hoá cao cấp chưa trở lại, nhất là sản phẩm veston nam. Số lượng đơn hàng tăng cao trong quý 1 có yếu tố khách quan đến từ sự dịch chuyển trở lại của đơn hàng đặt tại Myanmar trước đây do bất ổn chính trị từ đầu năm gây nên. Các doanh nghiệp trong Tập đoàn sau 1 năm chống dịch đã thích ứng với thị trường uyển chuyển hơn, do đó lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng hiệu quả vượt qua khá xa tốc độ tăng của doanh thu và kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, cũng còn nhìn thấy những điểm còn hạn chế của quý đầu năm trong các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn bao gồm: Tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với các đơn vị FDI; Hiệu quả ngành sợi chủ yếu là do tác động thuận lợi của thị trường mang lại chứ không phải đến từ việc đổi mới mô hình kinh doanh; Tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp vẫn kém hấp dẫn hơn so với khối FDI và tư nhân cùng làm dệt may dẫn tới nhiều doanh nghiệp thiếu nguồn nhân lực khi đơn hàng quay trở lại với số lượng lớn và thời gian giao hàng ngắn; Mức độ nhạy cảm với rủi ro của Covid-19 do tác động vào thị trường sức cầu vẫn còn cao, chưa cải thiện được nhiều so với năm 2020.