Ông Daniel Borer là tiến sỹ trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, đồng thời cũng là thạc sỹ về lãnh đạo và chiến lược. Ông có hai quốc tịch, Thuỵ Sỹ và Tây Ban Nha. Sau một khoảng thời gian ngắn sống tại Việt Nam, ông Daniel nhận định: "Cùng với chiến lược vaccine hiện tại, và những thành tích mà Việt Nam đạt được trong quá khứ, tôi tin rằng Việt Nam thực sự là điểm đến hấp dẫn. Điều này chắc chắn không thay đổi".
Chiến lược của Việt Nam đang chuyển sang 5K+ vaccine để chống dịch Covid-19. Việc tiêm vaccine đã xác định được 16 đối tượng ưu tiên, trong đó có công nhân làm việc ở các khu vực công nghiệp, lĩnh vực thiết yếu. Ông có nhận xét gì về chiến lược này?
5K đúng là chiến lược phù hợp hiện tại, khi mà tỷ lệ lây nhiễm đang gia tăng nhanh ở khu vực phía Nam. Nhưng nhìn chung, vaccine vẫn phải là trọng tâm chính để chống lại đại dịch.
Thực chất, chiến lược tiêm vaccine tại Việt Nam cũng đặc biệt hơn so với các nước phương Tây. Ở hầu hết quốc gia phương Tây, thứ tự ưu tiên là dành cho người cao tuổi, do họ là những đối tượng dễ bị nhiễm bệnh nhất.
Một lý do khác là làn sóng dịch bệnh tại các nước phương Tây trước đó nặng nề hơn rất nhiều so với Việt Nam. Do vậy, việc tiêm vaccine cũng nhằm làm giảm tỷ lệ lây nhiễm ở mức thấp nhất. Tuổi tác càng cao, nguy cơ lây nhiễm càng lớn. Đó là cơ sở lý luận mà họ đã dựa vào để triển khai việc tiêm vaccine.
Song tại Việt Nam, tỷ lệ lây nhiễm cũng như tỷ lệ tử vong đang ở mức tương đối thấp so với các nước khác, do vậy các nhóm ưu tiên tập trung vào lĩnh vực kinh tế là rất phù hợp, đặc biệt nhằm kích thích tốc độ phục hồi của nền kinh tế.
Tôi nghĩ rằng, việc Chính phủ Việt Nam áp dụng các biện pháp chống dịch hiệu quả ngay từ đầu là lợi thế đáng kể. Điều này cho phép Việt Nam có thể có chiến lược ưu tiên như vậy.
Đương nhiên, chúng ta vẫn có một số điểm tương đồng trong ưu tiên tiêm chủng với các nước trên toàn thế giới, điển hình như các nhân viên y tế phải được ưu tiên hàng đầu.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp sản xuất với lượng công nhân lớn vẫn chưa thể tiêm đủ vaccine cho tất cả cán bộ công nhân viên và cũng gặp khó khăn khi phải đề phòng sự lây lan của dịch bệnh. Trong bối cảnh vaccine về Việt Nam vẫn còn chưa nhiều, theo ông, giải pháp hợp lý nhất với họ là gì?
Thực ra thì trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã thích ứng với tình hình bằng việc áp dụng phương thức cho công nhân làm việc tại chỗ để duy trì hoạt động sản xuất. Tôi nghĩ đó là chiến lược thông minh.
Một lần nữa, vaccine vẫn là chìa khoá cho mọi câu hỏi. Đối với doanh nghiệp, một chiến lược mà tôi nghĩ Việt Nam có thể áp dụng đó là cho phép doanh nghiệp tiêm vaccine hàng loạt cho nhân viên. Khi đạt được mức tiêm chủng nhất định, họ được phép hoạt động bình thường trong mô hình thu nhỏ của doanh nghiệp đó. Khi có lợi thế này, chính các doanh nghiệp cũng sẽ háo hức hơn trong việc đầu tư vào vaccine, thậm chí có thể chế tạo vaccine.
Hay như ví dụ Samsung có thể liên hệ với trụ sở chính tại Hàn Quốc để mua vaccine. Từ đó thì nhiều doanh nghiệp cũng có thể liên hệ với trụ sở chính và mua vaccine, có thể từ Hàn Quốc, từ Trung Quốc, hoặc từ Mỹ. Về cơ bản, đó là một khoản đầu tư cho công ty.
Tôi nghĩ nếu có thể áp dụng, chiến lược Chính phủ cùng hợp tác với các doanh nghiệp đẩy nhanh việc tiêm chủng là rất cần thiết, đặc biệt đối với Việt Nam.
Nhiều doanh nghiệp FDI đã bố trí dựng lều cho nhân viên ăn ngủ tại nhà máy để thực hiện "3 tại chỗ", nhằm duy trình sản xuất, tránh đứt gãy chuỗi cung ứng. Ông thấy gì từ giải pháp đó?
Tôi phải công nhận, đây là một giải pháp sáng tạo và cần thiết vào thời điểm khẩn cấp hiện nay. Điều này cho phép công nhân tiếp tục hoạt động sản xuất trong bối cảnh dịch bệnh bất định. Ngoài ra, một giải pháp mà cá nhân tôi muốn thấy đó là sử dụng máy bay không người lái để giao hàng.
Tuy nhiên, với tình hình hiện tại thì có lẽ chúng ta chưa thể áp dụng công nghệ này.
Trong bối cảnh, số ca lây nhiễm ở TPHCM chưa tới đỉnh dịch, theo ông, các chính sách nên có thay đổi gì để có thể đảm bảo việc chống dịch mà vẫn giúp cho các doanh nghiệp duy trì sản xuất, góp phần tiếp tục thực hiện "mục tiêu kép"?
Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã làm rất tốt trong việc thực hiện mục tiêu kép, vừa đảm bảo ổn định kinh tế, vừa ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Song, có một nhân tố trong nền kinh tế tôi cho rằng đang bị bỏ quên đó là các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ.
Cụ thể, thời gian vừa qua, một số quy định về việc cấm vận chuyển thực phẩm đã được áp dụng tại các thành phố có số ca nhiễm tăng nhanh. Song có một điều, nhà hàng và các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp thực phẩm đã phải chịu đựng rất nhiều khó khăn trong thời gian vừa qua, và họ phải chuyển sang phương thức online để tồn tại.
Do vậy, việc áp dụng biện pháp này có thể nói là một đòn rất nặng nề đối với họ. Bên cạnh đó, sẽ tồn tại việc lách luật để giao hàng ở các nhà bán hàng nhỏ lẻ.
Thực tế thì không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất, mà tôi nghĩ với mọi doanh nghiệp, thì vaccine vẫn là căn cơ nhất.
Điển hình như du lịch chẳng hạn, chừng nào chúng ta triển khai tiêm vaccine nhanh chóng, thì du khách nước ngoài mới có thể quay lại Việt Nam. Khi đó sẽ kéo theo sự hồi phục của nhà hàng, khách sạn… Tôi nghĩ điều này sẽ củng cố thêm hiệu quả trong thực hiện mục tiêu kép của Việt Nam.
Ông có nhắc đến việc phục hồi các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ. Vậy với chiến dịch vaccine, các doanh nghiệp sẽ có triển vọng phục hồi ra sao ?
Nếu nhìn vào 6 tháng tới, tôi tin rằng mặc dù tốc độ có thể chưa quá nhanh, Việt Nam vẫn sẽ tiếp cận được với nhiều vaccine hơn. Nhìn chung, việc tiêm chủng toàn quốc sẽ mất rất nhiều thời gian. Do vậy, tôi nghĩ quan trọng nhất là 6 tháng tới, cần xem xét việc triển khai tiêm phòng một cách hiệu quả nhất, trước khi chúng ta có thể đạt được tiêm phòng cao hơn vào năm sau.
Các quốc gia như Thái Lan, Campuchia cũng đã đạt mức tiêm chủng cao đáng kể. Có thể sau 2 hoặc 3 tháng tới, họ sẽ mở cửa cho phép doanh nhân, khách du lịch vào. Do đó, chúng ta cũng cần có chiến lược để cạnh tranh với các nước láng giềng.
Cụ thể, bên cạnh vaccine, Việt Nam cũng đã áp dụng mã QR. Như vậy, khi mỗi người dân sau khi được tiêm phòng đầy đủ sẽ được cấp mã QR, từ đó được quyền tiếp cận các hoạt động giải trí như rạp chiếu phim, nhà hàng…
Ví dụ như rạp chiếu phim có thể được mở cửa khi nhân viên của rạp đều được tiêm chủng, sau đó chỉ cho phép khách hàng có mã QR được xem phim. Phương thức này đã được áp dụng với nhiều quốc gia, như Tây Ban Nha và Pháp. Các nhà hàng, rạp chiếu phim tại đó được phép mở cửa khi nhân viên tiêm chủng đầy đủ, và được đón khách nếu khách hàng đưa ra mã QR hoặc giấy xét nghiệm âm tính.
Vì sao mã QR lại được coi là cơ hội cho phục hồi kinh tế?
Chúng ta đang sống trong một thế giới có thể tận dụng rất nhiều từ điện thoại di động. Điều quan trọng của hộ chiếu vaccine hay mã QR chính là rất khó để có thể làm giả, từ đó giảm thiểu những rủi ro không đáng có sau này trong quá trình vận hành.
Các nước phương Tây đã và đang sử dụng mã QR và cả hộ chiếu vaccine. Song, mức độ còn chậm. Tôi nghĩ rằng Việt Nam có lợi thế hơn khi đã có mã QR, cộng với những giải pháp hết sức sáng tạo từ trước đến nay. Do vậy, việc áp dụng công nghệ vào sẽ thúc đẩy tính hiệu quả của các chiến lược mà Việt Nam đang áp dụng.
Nhìn chung, chúng ta cần tận dụng lực lượng lao động đã được tiêm vaccine đầy đủ. Đương nhiên, Việt Nam sẽ không mở cửa bừa bãi. Song, chúng ta có thể mở cửa một cách thông minh.
Điều này có thể áp dụng đối với các nước như Tây Ban Nha hay Pháp. Nhưng liệu nó gây ra sự phân biệt trong xã hội, khi nhiều người có cơ hội tiêm vaccine trước và nhanh chóng quay về cuộc sống bình thường, song một số khác thì không?
Tôi nghĩ đó sẽ là một thách thức mà Chính phủ phải xem xét và đưa ra quyết định. Thực chất trong giai đoạn triển khai tiêm vaccine, chúng ta có thể phải đánh đổi để giúp các nhà hàng, rạp chiếu phim và nhiều doanh nghiệp có thể trở lại trạng thái bình thường càng sớm càng tốt. Điều này rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các điểm du lịch cũng có thể thí điểm mở cửa, từ đó thúc đẩy hoạt động của các nhà hàng, khách sạn…
Tôi xin lưu ý rằng đây chỉ là biện pháp tạm thời. Cuối cùng thì mọi người đều có thể quay lại cuộc sống bình thường. Những biện pháp này cũng chỉ là cứu trợ tạm thời cho nhà hàng, khách sạn, rạp chiếu phim, cho ngành công nghiệp và nền kinh tế nói chung.
Chỉ mới 2 tháng trước, nhiều chuyên gia còn dự báo rất lạc quan về triển vọng kinh tế của Việt Nam. Nhưng ngay khi dịch bùng phát ở TP. HCM và các tỉnh phía Nam, các dự báo đều thay đổi rất lớn. Liệu có khả năng ngược lại xảy ra với Việt Nam khi việc tiêm chủng được thực hiện nhanh và chất lượng hay không?
Một điều mà chúng ta cần hiểu rõ, đó là dữ liệu sẽ đi kèm với độ trễ nhất định. Do vậy, kết quả kinh tế nửa đầu năm nay thực chất phản ánh nền kinh tế trong những tháng đầu năm. Việt Nam đã thành công rực rõ, cũng như hoạt động kinh tế đang trên đà phục hồi mạnh mẽ.
Song trong khoảng hơn 2 tháng trở lại đây, tỷ lệ lây nhiễm tăng đáng kể. Điều này sẽ tác động đến kết quả kinh tế trong nửa cuối năm. Vì vậy, kết quả phục hồi kinh tế trong 6 tháng tới, tôi nghĩ sẽ kém tích cực hơn trước.
Song, đây là thời điểm rất then chốt và quan trọng, quyết định đến tình hình phục hồi của đất nước. Liệu chúng ta có thể duy trì và giữ cho nền kinh tế an toàn trong 6 tháng tới hay không, tất cả đều phụ thuộc vào vaccine. Cách duy nhất để làm điều này chính là đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng.
Ông có suy nghĩ gì về chiến lược tự chủ nguồn vaccine (tự sản xuất) của Việt Nam?
Đúng là việc phát triển vaccine đòi hỏi rất nhiều thời gian, không thể thực hiện một cách nhanh chóng. Tuy nhiên vấn đề là, như WHO thông tin, Covid-19 là một loại cúm, do vậy chúng sẽ liên tục đột biến tạo ra các biến thể mới. Do vậy, việc Việt Nam tự chủ về nguồn vaccine thực sự là rất tốt trong công cuộc chiến đấu với dịch bệnh, ngay cả trong dài hạn.