Trong những năm gần đây, Việt Nam rất tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số nền kinh tế hoặc hiệp hội kinh tế. Ngày 30/6/2019, Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định bảo vệ đầu tư EU-Việt Nam đã chính thức được ký kết tại Hà Nội. Đây là một cột mốc quan trọng đối với thương mại toàn cầu của Việt Nam.
Các cuộc thảo luận về hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU đã kéo dài 7 năm. Năm 2012, hai bên bắt đầu đàm phán, đạt được thỏa thuận về nguyên tắc về hiệp định thương mại tự do song phương năm 2015 và năm 2019 ký thỏa thuận. Hiệp định này vẫn cần sự chấp thuận từ các cơ quan lập pháp tương ứng cũng như chính phủ các nước EU để chính thức có hiệu lực. Theo thỏa thuận, cả Việt Nam và EU sẽ dần dần cắt giảm và cuối cùng hủy bỏ thuế quan đối với 99% hàng hóa được giao dịch giữa hai bên trong vòng 7 đến 10 năm tới.
Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam như gạo, hải sản, quần áo và giày dép có thể được hưởng lợi từ thỏa thuận này, trong khi các sản phẩm của EU (như ô tô, sản phẩm sữa và rượu vang) và dịch vụ có thể có nhiều cơ hội xuất khẩu sang Việt Nam.
Về giá trị thương mại, thương mại song phương giữa Việt Nam và EU đạt tổng cộng 56,3 tỷ USD vào năm 2018, trong đó Việt Nam là bên có thặng dư thương mại. Một khi hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, nó sẽ có khả năng loại bỏ sự mất cân bằng thương mại giữa hai bên, đồng thời cũng thúc đẩy nền kinh tế thế giới.
Nhưng một hiệp định thương mại tự do cũng là con dao hai lưỡi đối với Việt Nam, vì tác động của thỏa thuận đối với năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt Nam không thể bị xem nhẹ. Việt Nam là một trong số rất ít nền kinh tế đang phát triển có quan hệ đối tác thương mại tự do của EU, do đó, chắc chắn nền kinh tế và các công ty Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực lớn.
Các tiêu chuẩn sản xuất tương đối cao liên quan đến các chỉ số môi trường và địa lý, cũng như các tiêu chuẩn quá cao về quyền con người và quyền lao động dự kiến sẽ tác động mạnh đến một cách toàn diện. Việc các công ty và cơ quan quản lý Việt Nam đối phó với những thách thức này ra sao, để thực sự tăng xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam sang EU như thế nào, chính là chìa khóa để trả lời câu hỏi: Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội do hiệp định thương mại tự do mang lại hay không?
Kể từ khi Việt Nam cải cách kinh tế từ năm 1986, Chính phủ đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa bằng cách liên tục đưa ra các biện pháp mới để mở cửa ra thế giới bên ngoài.
Các biện pháp này nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển đổi và nâng cấp kinh tế của Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời, họ cũng đặt mục tiêu đối phó với những thách thức kép của toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa để giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới.
Ông Xu Liping - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho biết: "Trong khi nền kinh tế Việt Nam đang tăng cường liên kết với thế giới, quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc vẫn rất chặt chẽ, phát triển nhanh chóng, hợp tác song phương và lợi ích chung ngày càng tăng.
Năm 2018, thương mại song phương giữa hai nước đạt 147,86 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm trước. Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Năm 2018, FDI Trung Quốc vào Việt Nam lên tới 2,46 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số 106 quốc gia và khu vực có đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư lũy kế của Trung Quốc tại Việt Nam là 13,3 tỷ USD.
Với quy mô kinh tế khác nhau, Trung Quốc và Việt Nam không bị ràng buộc quá lớn trong mối quan hệ cạnh tranh cho xuất khẩu. Trong năm 2019, thương mại của Trung Quốc với EU lên tới 600 tỷ EURO (674 tỷ USD), gấp hơn 10 lần so với giữa Việt Nam và EU. Nên Trung Quốc không lo ngại về ảnh hưởng của EVFTA với Trung Quốc".
"Trung Quốc và Việt Nam là đối tác tốt" - ông Xu khẳng định.