Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Đại học Melbourne đã cho thấy vào năm 2100, sẽ có thêm 287 triệu người, tương đương 4,1% dân số thế giới, chịu tác động từ nguy cơ lũ lụt ven biển. Dựa trên các khu vực bị ảnh hưởng, con số thiệt hại có thể lên tới 14,2 nghìn tỷ USD trên toàn thế giới, gần bằng 20% GDP toàn cầu.
Theo nghiên cứu, các khu vực ở Tây Bắc Châu Âu cũng như Đông Nam Á và Đông Á có nguy cơ cao nhất. Các khu vực ở Đông Bắc Hoa Kỳ và Bắc Úc cũng có khả năng bị ảnh hưởng.
Để đi đến kết luận của này, các nhà nghiên cứu đã phân tích mực nước biển trong các thiên tai, và so sánh những phát hiện này với các dự báo mực nước biển dâng cao. Sau đó, họ xem xét dữ liệu địa hình để xác định các khu vực có nguy cơ cao nhất, phân tích mức độ dân số và đóng góp của các khu vực này cho GDP toàn cầu.
"Mực nước biển dâng dự kiến sẽ làm tăng đáng kể tần suất lũ lụt ven biển vào năm 2100. Kết quả ở đây cho thấy rằng, đối với hầu hết thế giới, những thiên tai mà trước đây ta cho là trăm năm có một, giờ sẽ xảy ra với tần suất dày hơn, chủ yếu là kết quả của mực nước biển dâng", báo cáo cho biết.
Các nhà khoa học, dẫn đầu bởi ông Ebru Kirezci, phát hiện ra rằng nếu không có thay đổi nào được thực hiện, thì 48% diện tích đất liền ven biển của thế giới sẽ bị ngập lụt, khiến dân số bị ảnh hưởng tăng 52%. Trong số các khu vực ven biển có nguy cơ lũ lụt, 68% sẽ là do thủy triều và bão, với 32% từ mực nước biển dâng dự kiến.
"Khoảng 600 triệu người sống ở các khu vực ven biển sẽ hứng chịu các tác động môi trường và kinh tế xã hội liên quan đến lũ lụt ven biển", báo cáo cho biết.
Tổng lượng tài sản của những người chịu ảnh hưởng bởi lũ lụt ven biển dự báo sẽ tăng từ 9% đến 13% GDP toàn cầu hiện nay, từ 12% đến 20% vào năm 2100.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng lưu ý rằng những kết quả này chỉ đúng trong trường hợp không có giải pháp nào được thực hiện, điều đó có nghĩa là dự đoán của họ có thể bị cường điệu hóa. Báo cáo cũng không tính đến việc thay đổi mức GDP, hoặc dự đoán dân số trong tương lai.
Các nhà nghiên cứu viết: "Ở nhiều nơi, các tuyến đê phòng hộ ven biển thường được triển khai và đến năm 2100, dự kiến sự thích nghi và bảo vệ sẽ được phổ biến rộng rãi, do đó những ước tính này cần được xem là minh họa về quy mô thích ứng cần thiết để bù đắp rủi ro".