Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Theo đó, NHNN sẽ xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về tiền kỹ thuật số quốc gia.
Các lợi ích chính của CBDC bán lẻ nằm ở tiềm năng của chúng trong việc tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt, có sự hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền với những đổi mới trong quá trình số hóa xã hội (ảnh minh hoạ)
Đồng thời rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều khoản liên quan đến thanh toán tại một số văn bản Luật hiện hành; Nghiên cứu xây dựng Dự án Luật các hệ thống thanh toán, đảm bảo tương thích, phù hợp với quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Phòng, chống rửa tiền.
Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia tại Khoa Tài chính, ĐH Kinh tế TP HCM, hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia nghiên cứu và triển khai đồng tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC), thậm chí đã có quốc gia đưa vào sử dụng trong thực tế như Bahamas, Trung Quốc, Cam-pu-chia,... Đáng chú ý, một số quốc gia còn tiến hành nghiên cứu tiền CBDC "bán buôn" để phục vụ cho hệ thống thanh toán liên ngân hàng như Hồng Kông, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Canada, Anh, Pháp, Nam Phi và một số quốc gia khác ở châu Âu. Các quốc gia này có cách tiếp cận khá thận trọng đối với việc triển khai CBDC trong nền kinh tế.
"Về mô hình CBDC của Việt Nam, CBDC nên là tiền mật mã có "chủ quyền". Vì tiền mật mã có chủ quyền sẽ gần giống với một đồng tiền mật mã có giá trị ổn định theo tiền pháp định, thường được gọi là stablecoin. Đây là các đồng tiền tồn tại và được xử lý giao dịch trong mạng lưới blockchain nhưng giá trị thì được neo vào các đồng tiền pháp định của một quốc gia cụ thể. Đặc biệt, phát hành CBDC dưới dạng stablecoin sẽ tránh được rủi ro gây bất ổn cho hệ thống tài chính vì sự tràn ngập tiền tệ tư nhân", nhóm chuyên gia đề xuất.
Trước đó, một số người cũng gợi ý rằng, các giải pháp thanh toán tư nhân sáng tạo như stablecoin, nếu được quản lý hợp lý, có thể khiến CBDC trở nên thừa thãi. Nhưng niềm tin vào stablecoin cũng phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi với tiền của Ngân hàng Trung ương, trừ khi các tổ chức phát hành stablecoin được cấp quyền truy cập vào bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương, cho phép họ đầu tư dự trữ của mình dưới dạng tiền gửi không có rủi ro tại Ngân hàng Trung ương.
Trong đề án của NHNN cũng nhấn mạnh đến việc tăng cường kết nối giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán với Cổng dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống một cửa điện tử của các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử đối với các khoản phí, lệ phí, thanh toán hóa đơn điện, nước, học phí, viện phí; Thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin với các trường học, bệnh viện, công ty điện, nước, vệ sinh môi trường, viễn thông, bưu chính trên địa bàn đô thị để thu học học phí, viện phí, tiền điện… bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt .
Ông Đinh Hồng Sơn
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp, ông Đinh Hồng Sơn, Chuyên gia tài chính số đánh giá, nếu Việt Nam sớm đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển CBDC, thì sẽ góp phần sớm rút ngắn được thời gian triển khai tài chính toàn diện quốc gia. Các lợi ích chính của CBDC bán lẻ nằm ở tiềm năng của chúng trong việc tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt, có sự hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền với những đổi mới trong quá trình số hóa xã hội ngày càng rộng rãi. Đối với các Ngân hàng Trung ương ở một số thị trường mới nổi, động lực chính để nghiên cứu CBDC, là cơ hội để đưa các cộng đồng có tỷ lệ tiếp cận ngân hàng thấp vào hệ thống tài chính và cải thiện chi phí, tốc độ cũng như khả năng phục hồi của các khoản thanh toán.
"Rõ ràng, CBDC là loại tiền kỹ thuật số duy nhất có mệnh giá được đảm bảo về bản chất. Không giống như các tổ chức phát hành tư nhân phải dựa vào khả năng chuyển đổi, vì tiền của họ chịu rủi ro hoạt động, tín dụng, thanh khoản và thị trường. Những rủi ro này được giảm thiểu thông qua các biện pháp bảo vệ chính sách công, chẳng hạn như giám sát tài chính, các yêu cầu về vốn và bảo hiểm tiền gửi. Do đó, bằng cách cung cấp một "mỏ neo" tiền tệ, CBDC sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì một hệ thống thanh toán hoạt động tốt, sự ổn định tài chính và cuối cùng là niềm tin vào tiền tệ. Đây là điều kiện tiền đề để duy trì việc truyền tải chính sách tiền tệ, và do đó để bảo vệ giá trị của đồng tiền", ông Sơn phân tích.
Về vấn đề thanh toán, nhóm nghiên cứu tại ĐH Kinh tế TP HCM cũng đưa ra giả thiết, nếu tiền tệ được số hoá toàn bộ thì vai trò truyền thống của ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ dần mờ nhạt, hoặc thậm chí biến mất khỏi hệ thống tài chính hiện đại. Vì thế cần giữ vai trò của NHTM là trung gian cho việc thực thi chính sách tiền tệ khi tái phân phối cung tiền, tuy nhiên trong thực tế thì sẽ gánh vác thêm vai trò nền tảng kỹ thuật của hệ thống tiền tệ mới. Chi phí in ấn tiền sẽ được thay thế bằng chi phí giám sát và cải tiến hệ thống mã hoá cũng như các thuật toán cài đặt trên mạng lưới blockchain. Các NHTM sẽ đóng vai trò là các node chính (core node) còn các công ty cung cấp dịch vụ tài chính là các node phụ tiếp cận đến người dùng cuối.