Giá urê phục hồi
Giá urê tương lai tại sàn giao dịch Chicago (Mỹ) ngày 31/8 ở mức 875 USD/tấn, tăng 62% tính từ giữa tháng 6 nhưng vẫn giảm 18% so với vùng đỉnh 1.050 USD/tấn thiết lập vào nửa cuối tháng 3. Tại Trung Đông, giá urê cũng cũng cao hơn khoảng 38% so với giữa tháng 7. Trong khi giá phân bón này tại Trung Quốc và Ai Cập tăng lần lượt 4% và 10% từ đáy sau khi giảm 45% và 35% từ đỉnh.
Nguồn: TradingEconomics
Với trong nước, theo 2Nong, giá urê nội địa từng giảm đến 26% từ đỉnh vào cuối tháng 7 nhưng đến cuối tháng 8 còn giảm 20% từ đỉnh và giảm 15% so với đầu năm xuống còn 14.650 đồng/kg.
Diễn biến này có thể một phần do diễn biến giá thế giới, một phần do nhu cầu hồi phục trở lại khi đa số các khu vực đã thu hoạch xong và nông dân đang chuẩn bị cho vụ lúa Thu Đông - vụ mùa quan trọng nhất trong năm.
Trong bối cảnh đó, cổ phiếu nhóm phân bón cùng có phục hồi đáng kể, đặc biệt nhóm cổ phiếu phân đạm như Đạm Phú Mỹ ( HoSE: DPM ) và Đạm Cà Mau ( HoSE: DCM ).
Cụ thể, tính từ đầu tháng 7, cổ phiếu DCM tăng từ vùng 26.000 đồng/cp lên 37.600 đồng/cp, tăng 44,6%. Cổ phiếu DPM tăng từ vùng 43.200 đồng/cp lên 54.500 đồng/cp, tăng 26%. LAS, BFC, PCE tăng từ 18-21%.
Nguồn: TradingView
SSI Research cho rằng cổ phiếu phân bón như DPM, DCM có phản ứng tích cực với giá urê và triển vọng lợi nhuận quý III tăng trưởng khả quan.
Xuất khẩu phân bón tháng 7 giảm mạnh, nhu cầu urê có thể không hồi phục nhiều trong quý IV
Theo Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm, xuất khẩu phân bón đạt gần 1 triệu tấn, tương đương 647 triệu USD, tăng 43% về lượng và gấp 2,8 lần về kim ngạch so với cùng kỳ 2021. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh chủ yếu nhờ giá xuất khẩu tăng 80% so với cùng kỳ năm 2021 với bình quân 646 USD/tấn. Các thị trường nhập khẩu phân bón chính của Việt Nam là Campuchia, Hàn Quốc, Malaysia…
Tuy nhiên, sang đến tháng 7, xuất khẩu phân bón chỉ đạt 111.705 tấn, giảm 48% so với tháng 6; kim ngạch cũng giảm 49% về mức 75,15 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân vẫn ở mức cao 672 USD/tấn. Như vậy, sản lượng xuất khẩu phân bón ghi nhận mức thấp nhất trong 7 tháng trong khi kim ngạch còn cao hơn tháng 2 và 3.
Triển vọng xuất khẩu kém khả quan.
SSI Research cho biết Trung Quốc ban hành lệnh cấm xuất khẩu urê vào quý III/2021 đã đẩy giá urê tăng lên. Mặc dù lệnh cấm xuất khẩu của Trung Quốc đối với urê ban đầu dự kiến được gỡ bỏ vào cuối tháng 6, các hoạt động xuất khẩu vận rất hạn chế nhằm đảm bảo đủ nguồn cung cho tiêu thụ nội địa. Trong khi đó, Nga tiếp tục áp dụng hạn ngạch xuất khẩu đối với urê trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 12, nhưng mức hạn ngạch đã được tăng lên 8,3 triệu tấn trong nửa cuối năm 2022 (so với 5,9 triệu tấn trong giai đoạn từ tháng 12/2021 đến tháng 5). Bộ phận phân tích Chứng khoán SSI ước tính Nga chiếm khoảng 15% tổng xuất khẩu urê toàn cầu trong 2019.
Do đó, sản lượng xuất khẩu urê toàn cầu trong 6 tháng cuối năm sẽ cao hơn so với nửa đầu năm, điều này hỗ trợ giảm giá urê.
Về xu hướng giá nguyên liệu đầu vào, giá than và giá dầu đã điều chỉnh đáng kể so với mức đỉnh, trong khi giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu vẫn ở mức cao do gián đoạn nguồn cung từ Nga, cũng như lo ngại về khả năng sự gián đoạn này sẽ kéo dài. Việc định tuyến lại nguồn cung khí tự nhiên đến châu Âu khó hơn nhiều so với mặt hàng than và dầu. Giá khí đốt nhiên liệu cao tại châu Âu khiến các nhà sản xuất urê tại khu vực này giảm sản lượng thậm chí đóng cửa, đẩy giá urê lên cao.
Theo SSI Research, giá khí đốt tự nhiên cao ở châu Âu chủ yếu ảnh hưởng đến giá urê ở Biển Đen và Ai Cập. Trong khi đó, giá than điều chỉnh mạnh đã tác động lên giá urê tại Trung Quốc. Giá urê trên thị trường Việt Nam có mối tương quan chặt chẽ với giá urê tại thị trường Trung Quốc hoặc Indonesia, hơn là giá urê tại Biển Đen hoặc Ai Cập.
Nhu cầu urê suy yếu do lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu và do quý III thường là quý tiêu thụ thấp điểm. Mùa cao điểm quý IV sẽ hỗ trợ phục hồi nhu cầu tiêu thụ urê. Tuy nhiên, trước lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu và sự điều chỉnh giá các mặt hàng nông nghiệp, nhu cầu đối với phân urê có thể sẽ không phục hồi nhiều trong quý IV.