Chứng quyền có bảo đảm (CW) là một sản phẩm mới và tiềm ẩn nhiều rủi ro, do đó khung pháp lý hiện hành (bao gồm Nghị định số 60/2015/NĐ-CP, Thông tư số 107/2016/TT-TC, Quyết định số 72/QĐ-UBCK về việc ban hành Quy chế hướng dẫn chào bán và Phòng ngừa rủi ro CW của UBCKNN, Quyết định số 66/QĐ-SGDHCM về việc ban hành Quy chế giao dịch chứng khoán tại Sở GDCK Tp.HCM, Quyết định số 68/QĐ-SGDHCM về việc ban hành Quy chế hoạt động tạo lập thị trường và phòng ngừa rủi ro của tổ chức phát hành CW tại Sở GDCK Tp.HCM, Quyết định số 69 về việc ban hành Quy chế Niêm yết và Công bố thông tin đối với CW tại Sở GDCK Tp.HCM) đã có những quy định thiết thực nhằm hạn chế rủi ro trong việc thanh toán của tổ chức phát hành và bảo vệ nhà đầu tư.
Cụ thể:
- Điều kiện để trở thành tổ chức phát hành CW: theo Nghị định số 60/2015/NĐ-CP của Chính Phủ, để trở thành tổ chức phát hành CW, các CTCK phải có Vốn điều lệ và Vốn chủ sở hữu từ 1.000 tỷ đồng trở lên, không có lỗ lũy kế, và đồng thời không bị đặt trong tình trạng cảnh báo, tạm ngừng hoạt động, đình chỉ hoạt động, hoặc trong quá trình hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản. Các điều kiện trên được đánh giá là khá cao và theo thống kê đến ngày 30/06/2017, trong số 74 CTCK thành viên của HOSE, chỉ có khoảng 12 CTCK là đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành tổ chức phát hành.
- Tổ chức phát hành phải ký quỹ tài sản đảm bảo thanh toán trước khi chào bán CW: để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho người sở hữu CW, trước khi phát hành CW, tổ chức phát hành phải ký quỹ tài sản đảm bảo thanh toán (tiền, chứng chỉ tiền gửi hoặc có bảo lãnh thanh toán của ngân hàng lưu ký) tại ngân hàng lưu ký trong suốt thời gian có hiệu lực của chứng quyền, với giá trị ký quỹ tối thiểu là 50% giá trị đợt chào bán.
- Thực hiện phòng ngừa rủi ro: phòng ngừa rủi ro là nghĩa vụ bắt buộc của tổ chức phát hành CW. Trong suốt thời gian CW có hiệu lực, hàng ngày tổ chức phát hành CW phải thực hiện mua, bán cổ phiểu cơ sở theo phương án phòng ngừa rủi ro đã được trình bày trong bản cáo bạch. Việc phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho nhà đầu tư khi chứng quyền đáo hạn. Hoạt động này được giám sát chặt chẽ bởi SGDCK thông qua chế độ báo cáo hàng ngày.
- Thực hiện tạo lập thị trường: đây cũng là nghĩa vụ bắt buộc của tổ chức phát hành CW. Việc thực hiện tạo lập thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể bán lại CW bất kỳ thời điểm nào nếu nhà đầu tư không muốn nắm giữ CW đến ngày đáo hạn.
Trong trường hợp tổ chức phát hành xảy ra rủi ro mất khả năng thanh toán, Thông tư 107 cũng đã quy định tài sản dùng để thanh toán cho người sở hữu chứng quyềnn bao gồm: (a) tài sản phòng ngừa rủi ro và các tài sản khác có trên tài khoản tự doanh; (b) tài sản có trên tài khoản ký quỹ tại ngân hàng lưu ký hoặc bảo lãnh thanh toán (số tiền ký quỹ 50% tổng giá trị chứng quyền phát hành). Trường hợp không đủ tài sản để thanh toán thực hiện quyền, việc giải quyết quyền lợi cho người sở hữu chứng quyền thực hiện theo quy định pháp luật liên quan áp dụng đối với chủ nợ có đảm bảo một phần. Trường hợp tổ chức phát hành CW đã sử dụng hết số tài sản trên mà vẫn không đủ để thanh toán cho nhà đầu tư, người sở hữu CW sẽ trở thành chủ nợ có đảm bảo một phần đối với tổ chức phát hành.
Bên cạnh việc hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán của tổ chức phát hành CW, khung pháp lý hiện hành cũng đã có những quy định nhằm hạn chế rủi ro thao túng giá cổ phiếu cơ sở của CW, đặc biệt là vào gần ngày CW đáo hạn.
- Tiêu chí cho việc lựa chọn cổ phiếu cơ sở: để làm cổ phiếu cơ sở cho CW, các cổ phiếu này phải là các cổ phiếu nằm trong rổ chỉ số VN30, HNX30 và đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt về thanh khoản, mức vốn hóa cũng như tỷ lệ tự do chuyển nhượng.
- Phương thức xác định giá thanh toán của cổ phiếu cơ sở khi CW đáo hạn: để hạn chế việc thao túng giá cổ phiếu cơ sở vào ngày giao dịch cuối cùng, giá cổ phiếu cơ sở để xác định việc thực hiện chứng quyền là bình quân giá đóng cửa của cổ phiếu cơ sở trong năm (05) ngày giao dịch liền trước ngày đáo hạn (không bao gồm ngày đáo hạn).
Ngoài những quy định cụ thể trên, HOSE luôn chú trọng và tăng cường công tác giám sát chặt chẽ song hành giữa thị trường CW và thị trường cổ phiếu cơ sở nhằm theo dõi và phát hiện các biến động bất thường về giá, khối lượng giao dịch, xu hướng chuyển động giá chứng quyền và cổ phiếu cơ sở.
Được biết, CW là một sản phẩm ra đời ngoài việc bổ sung đa dạng danh mục các sản phẩm đầu tư, mà còn là công cụ quản lý rủi ro với chi phí hiệu quả. Do đó, việc hình thành các quy định, quy chế từ các cơ quan quản lý là điều cần thiết nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình vận hành sản phẩm mới đúng pháp luật, minh bạch, công khai và công bằng cho tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các bên có liên quan.
Tuy nhiên, thực tế khi đi vào vận hành sẽ có nhiều rủi ro phát sinh, chưa kể việc thao túng giá mặc dù có kiểm soát chặt chẽ, song xác suất xảy ra điều này có lẽ không hoàn toàn đạt mức 0%?