Trung tâm này cho biết, điện năng là loại hàng hóa đặc biệt, được sản xuất và cung ứng theo nguyên tắc tổng cầu bằng tổng cung. Nếu không đảm bảo được nguyên tắc này, hệ thống điện quốc gia sẽ đối mặt với các sự cố nguy hiểm gây mất điện trên diện rộng, thậm chí tan rã cả hệ thống.
Song, đại dịch Covid-19 đã làm nhu cầu tiêu thụ điện giảm thấp trên phạm vi cả nước. Sản lượng điện tiêu thụ của nước ta tăng bình quân khoảng 10% hằng năm, nhưng năm 2020 chỉ tăng 2,45%. Các tháng đầu năm 2021, lượng điện tiêu thụ chỉ tăng xấp xỉ 4,0% so với cùng kỳ năm 2020.
Đồng thời, nhu cầu tiêu thụ điện cũng có sự chênh lệch rất lớn giữa các giờ trong ngày (chênh lệch giữa buổi trưa và tối có thể lên tới khoảng 6.000-8.000 MW), giữa ngày làm việc và ngày nghỉ (ở mức khoảng 4.000-6.000 MW).
Hiện nay, tỉ trọng nguồn NLTT cung cấp cho hệ thống chiếm mức cao, chiếm xấp xỉ 23,5%. Nhưng do khả năng phát điện phụ thuộc hoàn toàn vào năng lượng sơ cấp tức thời, thay đổi thường xuyên, khó dự báo nên việc bảo đảm cung cầu vẫn phụ thuộc nhiều vào các nguồn truyền thống. Các nguồn thủy điện tuy vận hành linh hoạt hơn nhưng hiện chỉ chiếm khoảng 20% công suất hệ thống.
Đặc biệt, vào các giờ cao điểm (chiều tối hằng ngày), việc cung cấp điện hoàn toàn phụ thuộc vào các nguồn truyền thống do lúc này toàn bộ các nguồn cung từ điện mặt trời (chiếm khoảng 12.000-13.000 MW) đã không còn khả năng vận hành phát điện. Bên cạnh đó, nhiều thời điểm các nguồn điện phát ở khu vực miền Trung/Nam không thể phát được tối đa do các ràng buộc lưới điện truyền tải 110/220 kV và cả liên kết 500 kV từ miền Trung ra miền Bắc.
Chính vì vậy, việc huy động các nguồn điện hằng ngày cần được tính toán hợp lý, cơ cấu nguồn phải đảm bảo dự phòng để đáp ứng không những thay đổi của phụ tải tiêu thụ điện mà còn với các thay đổi bất thường của chính các nguồn năng lượng tái tạo với mức độ thay đổi hàng nghìn MW trong vài giây.
Do đó, theo A0, việc tiết giảm phát nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) trong thời gian qua cũng như hiện nay là bắt buộc phải thực hiện để bảo đảm hệ thống điện vận hành an toàn và ổn định.
Để khai thác tối đa có thể nguồn NLTT, A0 đã phối hợp với các tổ chức trong nước cũng như quốc tế nghiên cứu, đánh giá mức độ hấp thụ NLTT theo điều kiện thực tế ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, trong thời gian rất ngắn hạn, khả năng hấp thụ của hệ thống điện quốc gia có thể lên đến 55% như trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu.
Tuy nhiên trong vận hành lâu dài, với việc tuân thủ đúng và đủ các ràng buộc như Quy trình vận hành liên hồ chứa do Thủ tướng Chính phủ ban hành, các hợp đồng mua bán điện hiện hữu đang có hiệu lực, các yêu cầu kỹ thuật tiêu chuẩn của vận hành lưới điện… thì tỷ trọng này sẽ thấp hơn khá nhiều.
A0 đề xuất tiếp tục phối hợp dịch chuyển giờ cao điểm các nguồn thủy điện nhỏ. Hiện đã tăng khả năng hấp thụ nguồn NLTT khu vực miền Trung, miền Nam lên thêm khoảng hơn 1.000 MW do dịch giờ phát các nguồn thủy điện nhỏ từ 9h30-1h30 sang 6h00-8h00; đồng thời lập lịch vận hành tối ưu biểu đồ phát các nguồn truyền thống (than, khí, thủy điện); trong đó có việc thực hiện ngừng linh hoạt, kịp thời các nguồn nhiệt điện chạy khí; chấp nhận huy động các nguồn chạy dầu vào cao điểm chiều đáp ứng nhu cầu phụ tải, mặc dù sẽ có thể dẫn đến tăng thêm chi phí hệ thống.
Các đơn vị liên quan tính toán đề xuất các công trình lưới điện cần đẩy nhanh tiến độ để tăng khả năng giải tỏa công suất các nguồn NLTT; tích cực tham gia vào các đề án nghiên cứu hệ thống pin tích trữ năng lượng để chuyển dịch nguồn cung cũng như đảm bảo dự phòng ổn định hệ thống.
A0 cho biết, mặc dù việc tiết giảm năng lượng tái tạo đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn phải tiếp tục thực hiện. Đặc biệt, theo trung tâm này, trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu vừa qua (là thời kỳ nhu cầu sử dụng điện giảm thấp nhất trong năm), có những thời điểm phải tiết giảm gần 8.000 MW nguồn điện mặt trời, điện gió, trong đó có khoảng gần 3.500 MW điện mặt trời mái nhà.
Trong thời gian tới, hiện tượng thừa nguồn, quá tải lưới điện gây tiết giảm năng lượng tái tạo được nhận diện sẽ tiếp tục xuất hiện, như giai đoạn tháng 7-9 (miền Bắc bước vào thời kỳ lũ chính vụ của các hồ thủy điện), sản lượng điện tiết giảm dự kiến khoảng 180 triệu kWh/tháng, giai đoạn tháng 10-12 (các nguồn điện gió vào vận hành đủ theo quy hoạch, đồng thời đang trong giai đoạn mùa lũ miền Trung và miền Nam, lượng tiết giảm có khả năng lên đến 350 - 400 triệu kWh/tháng.