Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 6,15 tỷ USD, chiếm gần 67% lượng vốn, kinh doanh bất động sản là 1,7 tỷ USD, đứng thứ 2 chiếm khoảng 18,4%.
Tính đến 20/04/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt hơn 9,27 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 6,28 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính lũy kế đến ngày 20/04/2024, cả nước có 40.049 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 478,58 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 303,46 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Vốn đăng ký mới, cả nước có 966 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (tăng 28,8% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt hơn 7,11 tỷ USD (tăng 73,2% so với cùng kỳ ).
Vốn điều chỉnh, có 345 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 10,6% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 1,23 tỷ USD (giảm 25,6% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần, có 902 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 13,6% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt gần 929,6 triệu USD (giảm 70,1% so với cùng kỳ).
Theo ngành, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 17 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 6,15 tỷ USD, chiếm gần 66,4% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 19,8% so với cùng kỳ. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư hơn 1,73 tỷ USD, chiếm gần 18,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 78,2% so với cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là các ngành bán buôn bán lẻ; vận tải kho bãi với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 451,4 triệu USD và gần 383,2 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.
Xét về số lượng dự án, công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 37,2%) và điều chỉnh vốn (chiếm 60,3%). Ngành bán buôn, bán lẻ dẫn đầu về số lượt giao dịch GVMCP cao nhất (chiếm 44,2%).
Đã có 75 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 04 tháng đầu năm 2024. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 2,93 tỷ USD, chiếm 31,5% tổng vốn đầu tư, tăng 33,3% so với cùng kỳ 2023. Hồng Kông đứng thứ hai với hơn 1,18 tỷ USD, chiếm 12,8% tổng vốn đầu tư, gấp gần hơn 2 lần so với cùng kỳ. Đầu tư của Singapore và Hồng Kông chủ yếu là đầu tư mới, chiếm lần lượt 88,5% và 75,9% tổng vốn đầu tư của Singapore và Hồng Kông trong 04 tháng. Tiếp theo là Nhật Bản, Trung Quốc, …
Xét về số dự án, Trung Quốc là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới (chiếm 28,8%); Hàn Quốc dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 22,9%) và GVMCP (chiếm 27,2%).
Về vốn thực hiện, tính tới 20/04/2024, ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được khoảng 6,28 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 44 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 04 tháng đầu năm 2024. Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 1,52 tỷ USD, chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp hơn 12 lần cùng kỳ . Tiếp theo là Hà Nội với gần 1,15 tỷ USD, chiếm 12,4% tổng vốn đầu tư đăng ký và giảm 32,7% so với cùng kỳ năm 2023. Bắc Ninh đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 998,3 triệu USD, chiếm gần 10,8% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Quảng Ninh, Thái Nguyên, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,…
Nếu xét về số dự án, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (chiếm 37%), điều chỉnh vốn (chiếm 18,3%) và GVMCP (chiếm 72,3%).
Theo Cụcc Đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,…) như Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thái Nguyên, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Phòng. Riêng 10 địa phương này đã chiếm 74,8% số dự án mới và 79,1% số vốn đầu tư của cả nước trong 04 tháng.
Các đối tác đầu tư lớn nhất trong 04 tháng đầu năm đều là các đối tác truyền thống của Việt Nam và đến từ Châu Á. Riêng 5 nước dẫn đầu (Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) đã chiếm tới 73,1% số dự án đầu tư mới và 73,4% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực năng lượng (sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều giá trị gia tăng được đầu tư mới và mở rộng vốn trong 04 tháng.
Tính lũy kế đến ngày 20/04/2024, cả nước có 40.049 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 478,6 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt khoảng 303,46 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với gần 289,7 tỷ USD (chiếm 60,5% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với gần 70,2 tỷ USD (chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với gần 40,7 tỷ USD (chiếm gần 8,5% tổng vốn đầu tư).