Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng, dân số trẻ và rất sẵn sàng ứng dụng các công nghệ mới, kéo theo thị trường logistics trong nước trở nên sôi động. Tăng trưởng kinh tế cao, tăng sản xuất trong nước, tăng tiêu dùng là một số động lực chính của ngành logistics Việt Nam.
Trước đó, cơ sở hạ tầng giao thông còn yếu và chi phí hậu cần cao là những hạn chế của thị trường Việt Nam. Nhưng tình huống hiện nay đòi hỏi ngành này phải trải qua một thay đổi lớn để các ngành khác có thể phát triển cùng với nó. Thương mại điện tử bùng nổ đã tạo cơ hội lớn cho các startup logistics, đặc biệt là trong lĩnh vực giao hàng.
Theo báo cáo Thị trường logistics Việt Nam - xu hướng và tăng trưởng 2019-2024 của công ty nghiên cứu Orbis Research, với đường bờ biển dài 3.260 km và hệ thống sông ngòi dày đặc, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng cho vận tải hàng hải. Năm 2018, cảng biển Việt Nam đã thông qua 524,7 triệu tấn hàng hóa, tăng 19% so với năm 2017.
Cả nước có 1.593 tàu, với tổng công suất khoảng 7,8 triệu DWT tính đến tháng 12/2018, đứng thứ tư trong ASEAN và thứ 30 trên toàn cầu. Ngoài ra, Việt Nam hiện có 272 cầu cảng với công suất hàng năm trên 550 triệu tấn. Có khoảng 1.300 doanh nghiệp trên cả nước cung cấp các dịch vụ vận tải hàng hải; tuy nhiên, họ mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường. Ngành logistics hàng hải cần được đầu tư hơn nữa, và khi phát triển, ngành này có thể sẽ có tác động sâu sắc đến nền kinh tế.
Chính phủ có kế hoạch đưa Việt Nam trở thành một quốc gia hàng hải hùng mạnh vào năm 2030, tăng mức đóng góp của ngành hàng hải vào GDP lên 10%. Hơn nữa, chính phủ đặt mục tiêu tăng mức đóng góp của 28 tỉnh thành ven biển cho nền kinh tế Việt Nam lên 65% - 70% trong những năm tới, so với chỉ khoảng 60% trong năm 2017.
Tổng số hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam tăng tới 9,8% trong giai đoạn 2011-2017. Việt Nam đặt mục tiêu tăng sản lượng lên 640 đến 680 triệu tấn, mỗi năm đến năm 2020 và 1.040 đến 1.160 tấn mỗi năm đến năm 2030. Chính phủ cũng đang tìm cách giảm sự phụ thuộc vào vận tải đường bộ và cắt giảm khối lượng hàng hóa vận chuyển trên đường bộ.
Không chỉ có vậy, trong 20 năm qua, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm nóng sản xuất sáng nhất ở Đông Nam Á. Từ năm 1986 đến 2018, đất được giao cho các khu công nghiệp tăng ấn tượng từ 335 ha lên 80.000 ha. Do chi phí lao động thấp, Việt Nam đã đón được rất nhiều vốn trong những năm qua, để thành lập các cơ sở lắp ráp và nhà máy sản xuất.
Nguyên liệu thô và phụ tùng cơ khí cho mục đích sản xuất và sản xuất là một trong những mặt hàng nhập khẩu chính. Nguyên liệu thô cho sản xuất được nhập vào và các sản phẩm xuất đi liên tục, đòi hỏi một ngành hậu cần hiệu quả, hỗ trợ cho ngành sản xuất.
Việt Nam hiện đang là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Chính phủ đang khuyến khích kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và đang thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, bằng cách thành lập các khu kinh tế và khu công nghiệp. Khu vực công nghiệp sản xuất và chế biến nhận được vốn đầu tư nước ngoài cao nhất trong vòng nhiều năm qua.
Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp chuyển hoạt động từ Trung Quốc sang Việt Nam ngày càng tăng. Chi phí gia tăng ở Trung Quốc, cũng như thuế quan của Tổng thống Donald Trump đang khiến các doanh nghiệp chuyển cơ sở sản xuất sang Đông Nam Á. Sự gần gũi về địa lý khiến Việt Nam ltrở thành một lựa chọn khả thi. Hơn nữa, Việt Nam có rất nhiều hiệp định thương mại tự do (khoảng 17 FTA).
Theo công ty nghiên cứu Orbis Research, bối cảnh thị trường hậu cần của Việt Nam rất phân tán, và về bản chất và hầu hết doanh nghiệp tham gia là các công ty vừa và nhỏ, cung cấp dịch vụ hậu cần giá trị gia tăng thấp. Có hơn 3.000 công ty hậu cần, và 90% trong số họ có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ VND. Chỉ 5% trong số này có số vốn trong khoảng 10-20 tỷ VND, còn lại có hơn 20 tỷ VND.
Sự cạnh tranh giữa các công ty logistics trong nước sắp tới sẽ rất khốc liệt, và thị trường vận tải và hậu cần của Việt Nam vẫn còn bị chi phối bởi các công ty nước ngoài. Mặc dù các công ty hậu cần nước ngoài chiếm tỷ trọng ít hơn trong khối lượng vận chuyển, nhưng chúng chiếm 70% -80% doanh thu của thị trường hậu cần. Bản chất phân mảnh cao này cũng đang hạn chế tiềm năng hậu cần của Việt Nam ở một mức độ nào đó.