Sáng ngày 18/5/2019, CTCP Đầu tư Phát triển Cường Thuận Idico (CTI) đã tổ chức ĐHĐCĐ thường niên nhằm thông qua hoạt động 2018 cũng như kế hoạch thời gian tới.
Năm 2018 được phía CTI đánh giá là một năm khó khăn trong công tác hoàn thiện pháp lý cho một số dự án với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến việc một số dự án không đạt tiến độ đề ra. Theo đó, doanh thu và lợi nhuận CTI thu về lần lượt 917 tỷ và 128,5 tỷ đồng (tương ứng EPS 1.835 đồng), đồng thuận chưa đạt kế hoạch do giảm doanh thu từ hoạt động thu phí BOT tại các dự án QL 1A, QL 91 – Cần Thơ An Giang và dự án thu phí BOT – Tỉnh lộ 16 đã dừng thu phí do hết thời hạn hoàn vốn theo phương án tài chính đã phê duyệt.
Với kết quả đạt được, CTI dự chi cổ tức 2018 ở mức 12%, tương đương tổng số tiền chi ra 76,6 tỷ đồng.
Tổng Giám đốc: "Tôi khẳng định BOT là minh bạch"
Trước những vấn đề đang vấp phải trong mảng BOT, ông Nguyễn Xuân Quang – Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc cho biết: "Tôi khẳng định BOT là minh bạch, đây là hợp đồng mở với vốn đối ứng 20% nhằm bảo tồn vốn cho từng dự án, trung bình 2,5% năm. Hiện nay, lợi nhuận vốn chủ sở hữu được tính theo lãi suất ngân hàng cộng với 2%, không thu ngắn hạn cũng dài hạn.
Còn 80% còn lại đi vay từ ngân hàng, thu chưa đủ thì vốn nhà đầu tư ngân hàng còn đó, nói chung là minh bạch. Hàng quý hàng tháng phải báo cáo với Bộ Giao thông đường bộ, việc thu phí phải có hoá đơn đỏ và phải báo cáo thuế, và hệ thống thu phí BOT thì phải xác định qua mã vạch nên không cho phép gian lận...".
Điểm qua một số dự án BOT, bao gồm:
(1) Dự án BOT tuyến quốc lộ 1A: Tổng mức đầu tư 1.506 tỷ đồng, doanh thu vào khoảng 236 tỷ/năm, lợi nhuận vốn chủ sở hữu là 12% cho phân đoạn 1 và 14% cho phân đoạn 2, thời gian hoàn vốn 15 năm 7 tháng.
(2) Dự án BOT QL91 - 91B Cần Thơ An Giang: Dự án bao gồm QL91 có chiều dài tuyến khoảng 38km và QL 91B là 15km. Tổng đầu tư dự án 1.720 tỷ đồng, doanh thu vào khoảng 158 tỷ đồng/năm, lợi nhuận vốn chủ sở hữu là 12%/năm, thời gian hoàn vốn điều chỉnh 34 năm.
(3) Dự án đường chuyên dụng vận chuyển VLXD: Toàn tuyến có tổng chiều dài hơn 6km, tổng mức đầu tư trên 200 tỷ đồng, dự kiến tháng 6/2019 sẽ được thu phí hoàn vốn.
(4) Dự án nút giao 319 và cao tốc Tp.HCM – Long Thành – Dầu Giây: Tổng chiều dài phần tuyến và cầu vượt là 9,46km, tổng mức đầu tư 966 tỷ đồng, khối lượng thi công đã đạt khoảng 48%, dự kiến quý 1/2020 sẽ đưa vào khai thác và thu phí.
(5) Dự án đầu tư chuyển giao dự án BOT 319 – Phan Thiết, Đồng Nai: Dự án có tổng chiều dài phần tuyến 114 km nằm trên hai địa bàn Đồng Nai và Phan Thiết, tổng giá trị trúng thầu 1.708 tỷ đồng, thủ tục chuyển giao dự án sẽ thực hiện trong tháng 7/2019.
2019 tổng nhu cầu vốn đầu tư 2.500 tỷ, sẽ huy động tối thiểu 220 tỷ qua cổ phiếu
Đặt kế hoạch cho năm 2019, Công ty ra chỉ tiêu doanh thu hợp nhất 1.305 tỷ đồng, tương ứng mức lợi nhuận sau thuế (đã loại trừ doanh thu và lợi nhuận nội bộ) 141,5 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu công ty mẹ dự kiến thu 729 tỷ, với 400 tỷ từ xây lắp, cung cấp bê tông nhựa, BTT; 100 tỷ từ cung cấp ống; 4 tỷ từ thu phí BOT – TL16 (ngừng thu phí từ ngày 1/2/2019); 150 tỷ từ khai thác gia công đá; 40 tỷ dịch vụ quản lý thu phí hộ và cuối cùng 35 tỷ doanh thu khác (thu từ xăng dầu). Công ty dự kiến chia cổ tức 2019 vào mức 12%, tương đương 1.200 đồng/cp.
Về hoạt động đầu tư, năm 2019 CTI dự kiến tổng vốn vào mức 2.500 tỷ đồng, chủ đầu tư tham gia dự kiến 20% tổng mức đầu tư (500 tỷ đồng), 80% còn lại huy động từ các tổ chức tín dụng và vốn vay hợp pháp khác.
Năm 2019, CTI cũng lên kế hoạch phát hành riêng lẻ nhằm huy động vốn cho hoạt động đầu tư. Chi tiết, Công ty dự phát hành tối đa 10 triệu cổ phiếu với tỷ lệ 15,87%. Giá phát hành là giá được đề xuất chào bán cổ phần cho nhà đầu tư được lựa chọn và không thấp hơn 22.000 đồng/cp, thời gian ngay trong năm nay sau khi được UBCKNN chấp thuận. Tổng giá trị thu về tối thiểu 220 tỷ, CTI sẽ dùng làm vốn đối ứng cho dự án BOT QL1 đoạn Phan Thiết – Dầu Giây (187,6 tỷ) và dự án BOT đường 319 nối dài & nút giao 319 & đường cao tốc Tp.HCM – Long Thành – Dầu Giây (32,4 tỷ đồng).
Thảo luận
1. Kế hoạch 2019 liệu có quá thận trọng?
Ông Quang trả lời, năm 2019 thì mục tiêu đưa ra thực tế rất quyết tâm. Nhớ lại năm 2017 có dự án QL1 thì bảo toàn vốn được 12-14% và chia được, năm 2018 thì bị hạ giá vé dẫn đến thu không đủ, từ đó chỉ chia được 5%.
Hiện Nhà nước cho chúng ta lợi suất VCSH là 12-14% năm, thời gian vì do hạ giá vé nên chưa thu hồi được, ban lãnh đạo vẫn đưa ra mục tiêu tăng trưởng hơn 10% là đã rất quyết tâm.
Ngoài ra, CTI còn có thể thu lợi nhuận từ mỏ đá, nhà máy bê tông… dự kiến chia cổ tức 12% cho năm 2019. Dự kiến những năm tới sẽ phải chỉnh lại tỷ lệ tăng trưởng của mảng BOT, còn năm 2019 thì kế hoạch xây dựng còn dựa trên nền tảng từ các mỏ đá, nhà máy bê tông…
2. Vốn chủ sở hữu khá nhỏ, thì khả năng đi vay có được nhiều?
Nói về vốn có đáp ứng được nhu cầu không, Chủ tịch CTI - ông Trần Như Hoàng - cho biết năm 2019 Công ty dự kiến phát hành cổ phiều riêng lẻ để đầu tư cho một số dự án như dự án BOT Phan Thiết, như vậy cơ bản đủ vốn.
3. Dự án nhà ở xã hội CTI sẽ ghi nhận lợi nhuận như thế nào?
Về nhà ở xã hội đang xây dựng tầng thứ 10, đang đi đúng với kế hoạch Nhà nước giao. Lợi ích từ mảng này chủ yếu nhằm xây dựng thương hiệu Công ty, hiện phần thương mại CTI đã bán hết, đồng thời lợi nhuận CTI nhận được tại dự án này đâu đó được 10%.
4. Mỏ đá Tân Cang 8 có tỷ suất sinh lợi không cao hơn Thiện Tân 10, do đâu?
Ông Quang: Thiện Tân 10 hiện đạt tỷ suất doanh thu tốt hơn Tân Cang 8, do Tân Cang 8 có chất lượng đá tốt nhất khu vực Đồng Nai, giá trị đầu tư đất máy móc cao hơn so với Thiện Tân 10. Do đó, tỷ lệ đầu tư vào đây cao hơn so với Thiện Tân 10, ngoài ra còn bị chi phối bởi địa lý khai thác cũng như thiết kế mỏ đá.
Được biết, mảng đá xây dựng của CTI liên tục tăng trưởng nhiều năm trở lại đây, theo Chủ tịch Công ty biên lợi nhuận mảng này khá tốt, năm 2017 tuy chỉ đóng góp 8% doanh thu nhưng lại đóng góp 15% lợi nhuận. Hiện Công ty đang khai thác và kiểm soát 3 mỏ đá gồm: Xuân Hoà (diện tích 20ha, công suất 500.000m3/năm, trữ lượng 18 triệu m3 với thời gian thực hiện 37 năm), Tân Cang 8 (diện tích 75ha, công suất 900.000m3/năm, trữ lượng 26,6 triệu m3 với thời gian thực hiện 30 năm), Thiện tân 10 (diện tích 35ha, công suất 800.000m3/năm, trữ lượng 15 triệu m3 với thời gian thực hiện 20 năm),