Thành tựu chính của thỏa thuận này dường như đang làm đi dịu đi tính bất ổn của việc leo thang mức thuế quan hơn nữa, đến từ động thái hủy bỏ việc tăng thuế của cả hai phía. Nhưng cuối cùng, nó lại đem lại rất ít cải thiện cho tình hình hiện tại. Thỏa thuận sẽ không xóa bỏ thuế quan hiện có đối với 500 tỷ USD hàng hóa thương mại song phương giữa Mỹ và Trung Quốc.
Giới quan sát cũng bày tỏ quan ngại về danh mục các loại hàng hóa được liệt kê trong thỏa thuận, với yêu cầu Trung Quốc mua thêm 200 tỷ USD hàng hóa từ Mỹ trong vòng hai năm tới. Các hàng hóa này bao gồm sản phẩm nông nghiệp, sản xuất và các sản phẩm liên quan đến năng lượng.
Các mối lo này xuất phát từ sự nghi ngại khả năng thực hiện tốt các cam kết tăng cường mua hàng hóa Mỹ của Trung Quốc, ngoài ra cũng được dự báo là sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế của quốc gia tỷ dân này. Việc áp đặt các yêu cầu nhập khẩu của Trung Quốc cũng đem lại nguy cơ vi phạm các quy tắc thương mại toàn cầu, làm biến dạng và chệch hướng các dòng chảy thương mại quốc tế.
Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Điều này có thể đem lại nhiều bất lợi cho các nhà xuất khẩu ở Đông Nam Á, bởi Trung Quốc sẽ phải tăng nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ và nhiều khả năng giảm nhập khẩu từ các nước khác trong khu vực.
Theo nhiều phân tích gần đây, các nhà xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp như Brazil, EU, Úc và New Zealand nhận thấy nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc giảm khi họ chuyển sang mua nhiều sản phẩm hơn từ Mỹ. Tương tự, các nguồn hàng sản xuất ngoài Mỹ như EU, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có thể bị ảnh hưởng. Trong khi đó, các sản phẩm ngành năng lượng trong thỏa thuận có thể ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu mặt hàng này như ở các quốc gia vùng Vịnh và Úc.
Tại Đông Nam Á, Viện Chiến lược và Quốc tế Malaysia dự báo nước này sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Cụ thể, có 52,7 tỷ USD - khoảng 83% - hàng xuất khẩu của Malaysia sang Trung Quốc là thuộc danh mục các hàng hóa được liệt kê trong thỏa thuận giai đoạn 1. Điều này gây ra nguy cơ mất thị phần vào tay các nhà sản xuất Mỹ.
Philippines và Singapore lần lượt là hai quốc gia tiếp theo bị ảnh hưởng nhiều nhất tại Đông Nam Á, với 82% và 66% hàng xuất khẩu sang Trung Quốc bị ảnh hưởng. Tại Philippines, các sản phẩm bị ảnh hưởng chủ yếu là các mặt hàng nông sản như dừa, trái cây và các loại hạt. Tại Singapore, các mặt hàng bị ảnh hưởng gồm các thiết bị điện tử, hóa chất công nghiệp và các sản phẩm hữu cơ.
Việt Nam và Thái Lan đều tương đối ít chịu ảnh hưởng, với ít hơn 65% hàng xuất khẩu sang Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu ngũ cốc, rau củ quả và thủy sản của Việt Nam cũng cần nâng cao cảnh giác.
Trong khi thỏa thuận giai đoạn 1 làm giảm bớt những lo lắng xung quanh sự căng thẳng leo thang của thương chiến Mỹ - Trung Quốc, nó cũng mang lại những rủi ro tiềm ẩn. Trong mọi trường hợp, chủ nghĩa bảo hộ thương mại và thuế quan đã được bình thường hóa.
Kể từ đầu năm, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã mở rộng thuế quan an ninh quốc gia đối với thép và nhôm nhập khẩu, cũng như thiết lập một quy tắc cho phép Mỹ áp dụng thuế đối với bất cứ nước nào bị xét vào diện "thao túng tiền tệ". Giới quan sát cũng bày tỏ nhiều cẩn trọng hơn dưới thời chính quyền Tổng thống Trump.