Dù được đánh giá là một trong các trung tâm điện gió ngoài khơi của thế giới, cũng như có nhiều lợi thế để phát triển và thu hút đầu tư, nhưng trong dự thảo Quy hoạch điện VIII, công suất điện gió ngoài khơi chỉ từ 2-3 GW đến năm 2030, chiếm từ 1,45% đến 2% trong tổng công suất điện đến năm 2030.
Trước đó, tại buổi đối thoại kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến của Hội đồng chuyển đổi năng lượng COP26, đại diện Vương quốc Anh thông tin, giá điện gió ngoài khơi tại Vương quốc Anh có mức giảm nhanh nhất so với điện gió trên bờ và điện mặt trời, từ 140£/MWh năm 2010 xuống còn 57£ năm 2020, giảm khoảng 60% sau 10 năm. Xu hướng giảm giá này được dự báo sẽ nhanh hơn trong thời gian tới, thấp hơn giá điện than.
Báo cáo của Hiệp hội gió toàn cầu (GWEC) nêu rõ, giá điện gió ngoài khơi từ 255 USD/MWh năm 2010 xuống còn 83 USD năm 2020 (giảm 67,5%) và dự kiến còn 58 USD vào năm 2025 (giảm tiếp 30,1%).
Tại Việt Nam, lần đầu tiên việc xác định khái niệm dự án điện gió ngoài khơi (là khu vực có độ sâu đáy biển lớn hơn 20m), công suất nguồn điện từ điện gió ngoài khơi tách biệt với điện gió trên bờ và gần bờ đã được đưa ra trong dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Dự thảo này chỉ rõ, tỷ trọng năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) chiếm gần 30% trong tổng nguồn điện đến năm 2030, quy mô công suất nguồn điện gió tăng gấp 3 lần và nguồn điện mặt trời gần gấp 2 lần so với Quy hoạch điện VII. Mặc dù vậy, điện gió ở đây chủ yếu là điện gió trên bờ và gần bờ (tăng 9GW), điện mặt trời thêm 7GW.
Trong khi đó, trong kịch bản phụ tải cơ sở, đến năm 2030, công suất đặt điện gió ngoài khơi là 2GW trong tổng số 137,662 GW, chiếm tỷ lệ 1,45%. Đối với kịch bản phụ tải cao, đến năm 2030, công suất đặt là 3GW trong tổng số 147,552GW, chiếm tỷ lệ 2%.
Ngân hàng thế giới (WB) cũng nhận định, Việt Nam có tiềm năng lý thuyết - kỹ thuật 475 GW điện gió ngoài khơi. Cơ quan năng lượng Đan Mạch (DEA) cũng cho biết, Việt Nam có tiềm năng hoàn toàn khả thi là 162 GW, trong đó 132 GW điện gió ngoài khơi ở khu vực độ sâu đáy biển dưới 50m và 30 GW dùng công nghệ móng nổi.
Như vậy, các tổ chức trên thế giới đều cho rằng Việt Nam nên tăng công suất đặt điện gió ngoài khơi đến năm 2030 là 10GW, nhằm phù hợp với điều kiện cũng như cơ sở để thu hút các nhà đầu tư trong các dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Dự thảo Quy hoạch điện VIII cho hay, đến năm 2030, Việt Nam đang cần lượng vốn đầu tư vào nguồn điện và lưới điện khoảng 128 tỷ USD.
Theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, với suất đầu tư từ 2,5-3 tỷ USD/GW điện gió ngoài khơi, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút hàng trăm tỷ USD trong thập niên tới. Tỷ lệ nội địa hóa tới 50% có thể tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong lĩnh vực này.