Theo quy định tại Bộ luật lao động thì thưởng Tết không phải là nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp trong mọi trường hợp. Mức thưởng phụ thuộc kết quả kinh doanh, hiệu quả công việc của người lao động.
Cùng với thời điểm hết năm, cận Tết, chuyện lương, thưởng "nóng" lên, PV Dân trí đã trao đổi với luật sư Nguyễn Đức Chánh (đoàn luật sư TPHCM) về những quy định pháp lý liên quan nghĩa vụ/quyền lợi của người sử dụng lao động, người lao động xung quanh việc này.
- Thưa luật sư, thời gian qua, nhiều bạn đọc báo Dân trí thắc mắc về quy định thưởng Tết, cách tính thưởng Tết cho người lao động đang được áp dụng ra sao? Hiện, pháp luật hiện hành áp dụng về vấn đề thưởng Tết như thế nào?
- Căn cứ theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì hàng năm, người lao động trên phạm vi cả nước đều được nghỉ Tết Dương lịch 1 ngày và Tết Âm lịch ít nhất là 5 ngày và được hưởng nguyên lương đối với những ngày này.
Nếu trường hợp người lao động làm việc vào ngày nghỉ lễ, tết thì được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm với ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
Về quy định thưởng Tết:
Tiền thưởng được hiểu là khoản thù lao bổ sung cho tiền lương để trả cho những yếu tố mới phát sinh trong quá trình lao động ( tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, sáng kiến…) chưa tính đến trong mức lương theo chức danh hoặc theo công việc.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật lao động 2018 quy định: "Thưởng là số tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động.".
Các quy định cụ thể về các trường hợp, tiêu chuẩn, thời gian, mức, cách thức,…thưởng sẽ được quy định trong Quy chế của doanh nghiệp. Cũng có những trường hợp thì tiền thưởng của người lao động sẽ được thỏa thuận ghi trong thỏa ước lao động tập thể hoặc hợp đồng lao động của hai bên.
- Doanh nghiệp có buộc phải thưởng Tết cho người lao động, thưa ông?
- Theo quy định tại Bộ luật lao động 2019 hiện hành thì không có quy định cụ thể nào về bắt buộc phải trả "lương tháng 13" hay thưởng Tết cho người lao động. Mà hiểu chung ở đây là thưởng theo Điều 104 Bộ luật Lao động 2019.
Việc có người sử dụng lao động có phải bắt buộc trả "lương tháng 13" hay thưởng Tết phụ thuộc vào
Quy chế thưởng, Thỏa ước lao động tập thể hoặc Hợp đồng lao động giữa hai bên.
Tùy vào tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể xây dựng quy chế thưởng Tết cho người lao động một lần hoặc theo từng năm. Mức thưởng Tết hằng năm (đối với doanh nghiệp có thực hiện thưởng Tết cho người lao động) cho người lao động sẽ do doanh nghiệp quyết định dựa vào Quy chế thưởng, Thỏa ước lao động tập thể hoặc Hợp đồng lao động. Hoặc người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động.
- Thưởng Tết rõ ràng cũng là một khoản thu nhập của người lao động và người nhận tiền phải nộp thuế thu nhập cá nhân với khoản này. Vậy, về phía người sử dụng lao động, doanh nghiệp có phải đóng bảo hiểm xã hội trên khoản tiền thưởng Tết chi trả?
- Căn cứ theo quy định tại Công văn 560/LĐTBXH-BHXH năm 2018 thì: Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện theo quy định tại Điều 89 Luật bảo hiểm xã hội, Điều 17 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ, Điều 30 Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Theo quy định tại các văn bản nêu trên thì từ ngày 1/1/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc không bao gồm các khoản chế độ và phúc lợi khác, như tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 Bộ luật lao động, tiền thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác.
Như vậy, tiền thưởng của người lao động (bao gồm tiền thưởng lương tháng thứ 13 và tiền thưởng theo đánh giá kết quả công việc hàng năm) không làm căn cứ để tính đóng bảo hiểm xã hội.
- Xin cảm ơn ông!
(Theo Dân Trí)