Tình hình bệnh dịch dường như đã và đang là gánh nặng rất lớn đối với các doanh nghiệp F&B. Theo báo cáo Khủng hoảng COVID-19: Tác động và tiềm năng Phục hồi do công ty quảng cáo Adsota phát hành, có tới 26,2% trong số 1200 doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ sẽ có thể chịu cảnh phá sản nếu nếu bệnh dịch kéo dài hơn 6 tháng. Trong đó, ngành F&B thuộc nhóm chịu tác động mạnh mẽ và tức thì của đại dịch.
Do đó, các nền tảng trực tuyến đã lập tức được các doanh nghiệp F&B tận dụng triệt để nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại do đại dịch. Tuy nhiên, ngay cả khi dịch bệnh kết thúc, ngành hàng này dường như vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn do sự thay đổi về cách thức kinh doanh và hành vi khách hàng. Đây cũng là thời điểm diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt đối với ngành F&B, khi các nhãn hàng tận dụng tối đa các nền tảng digital để chạm tới khách hàng.
Việc cắt giảm chi phí, điển hình là chi phí dành cho marketing trong mùa dịch đang khiến không ít thương hiệu phải đau đầu. Bởi lẽ thời điểm người dùng dành nhiều thời gian và sẵn sàng tương tác trên Internet như hiện tại là một cơ hội “có một không hai” cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, những quảng cáo hoành tráng và dễ gây ấn tượng lại thường đòi hỏi chi phí và thời gian sản xuất quá lớn, trong khi những quảng cáo đơn giản lại kém thu hút hơn hẳn. Chính vì vậy, theo Adsota, điều các doanh nghiệp F&B là một ý tưởng “gọn nhẹ”, tốn ít chi phí nhưng lại đủ hấp dẫn để thu hút thực khách. Các nội dung cần phải được lên kế hoạch kỹ lưỡng và phân bổ trên các nền tảng trực tuyến một cách phù hợp. Đặc biệt là trong thời điểm hiện tại, khi những nền tảng nội dung mới như TikTok đang dần chiếm ưu thế trên thị trường so với các “ông lớn” đã quá quen thuộc như Facebook, Instagram và Youtube.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị một chiến lược dài hơi để thích nghi với dịch bệnh, vì COVID-19 đang đẩy các doanh nghiệp F&B vào “thế bí” không thể chối cãi. Tuy nhiên đây cũng có thể coi như một động lực phát triển cần thiết, giúp các doanh nghiệp không còn bỡ ngỡ trước những tình huống tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Một ví dụ điển hình, Starbuck là một trong những thương hiệu đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề do COVID-19 từ sớm do thị trường Trung Quốc sở hữu tới 4300 cửa hàng, tương đương với 13% tổng số cửa hàng trên toàn thế giới. Ngay sau khi thị trường Trung Quốc có dấu hiệu khởi sắc trở lại thì "ông lớn" ngành cà phê này lại phải đối diện với khủng hoảng COVID-19 tại thị trường châu Âu. Mặc dù vẫn gặp nhiều khó khăn nhưng kinh nghiệm sớm tại thị trường Trung Quốc dường như đã giúp Starbuck “dễ thở” hơn trong việc xử lý vấn đề.
Thay vì quảng cáo rầm rộ, hãng quyết định tập trung vào việc kết nối với đối tác và những khách hàng sẵn có. Tuy đã bắt đầu mở lại tới 90% cửa hàng tại thị trường châu Âu, Starbuck sẽ duy trì hoạt động theo mô hình mua mang đi, giúp hạn chế tiếp xúc trong quy trình bán hàng. Trong quyết định này của mình, Starbuck liên tục nhấn mạnh sự ưu tiên đối với khách hàng lâu năm và đối tác trong thời điểm khó khăn này.
Ngoài ra, thương hiệu cũng đẩy mạnh hoạt động nâng cao nhận thức cho khách hàng về khủng hoảng trong lĩnh vực thực phẩm mùa dịch và khuyến khích khách hàng cùng chung tay quyên góp cho tổ chức Feeding America. Thông qua chiến dịch này, Starbuck đã quyên góp hơn 700,000 bữa ăn, 62,000 ga-lông sữa và hàng triệu cốc cafe miễn phí cho Mỹ và Canada.