Nguyên nhân của kiến nghị này là do trước đó, ngày 13-9, VPA nhận được công văn số 10756/BTC-CST của Bộ Tài chính về việc xin ý kiến dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 125/2017/NĐ-CP, trong đó Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng Polypropylen (hạt nhựa PP thuộc nhóm HS 3902) từ 3% lên 5%.
Theo VPA, việc dự kiến tăng thuế nhập khẩu lên 5% đối với nguồn nguyên liệu chủ yếu sẽ gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến ngành công nghiệp nhựa còn non trẻ của nước ta. Thậm chí, còn vô tình tăng thêm sức mạnh cho hàng ngoại trong việc chiếm lĩnh thị phần tại Việt Nam, giảm số thu ngân sách, nguy cơ doanhnghiệp (DN) nội địa sản xuất hàng hóa từ nguyên liệu PP phá sản, người lao động mất việc, an sinh xã hội bị ảnhhưởng.
Trong văn bản, VPA cho biết các DN ngành nhựa hoàn toàn ủng hộ nội dung xây dưng một nền công nghiệp hóa dầu tại Việt Nam, cụ thể là hình thành các nhà máy sản xuất nguyên liệu Nhựa chính là Polypropylen (PP) của Khu lọc hóa dầu Dung Quất và Polyethylene (PE) + Polypropylen (PP) của Khu liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn.
Tuy nhiên, theo công suất thiết kế và sản xuất trên thực tế thì Công ty TNHH Một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn kể từ khi đưa vào sản xuất cho đến hết năm 2017 thì tổng công suất tối đa chỉ đạt 150.000 tấn/năm và Khu liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn theo tiến độ đến giữa năm 2019 mới đi vào hoạt động sản xuất để cung cấp sản phẩm PP cho thị trường Việt Nam nhưng sản lượng không đạt mức công suất thiết kế là 300.000 tấn/năm.
Hiện năng lực sản xuất nguyên liệu nhựa PP của các nhà máy lọc dầu trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ của các DN nhựa
Tương tự, Công ty TNHH Hyosung Vietnam có công suất thiết kế là 300.000 tấn/năm nhưng chỉ có 1/3 công suất sản phẩm PP là được sử dụng cho sản xuất các sản phẩm Nhựa ép (PP Injection) và 2/3 tổng công suất còn lại là sản phẩm chuyên dụng phục vụ ngành dệt may.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ hạt nhựa PP tại thị trường Việt Nam trong vòng 5 năm nay tăng bình quân 200.000 tấn/năm, từ 582.761 tấn vào năm 2014 đã tăng lên 1.274.988 tấn vào năm 2018. Dự kiến, giai đoạn 2019-2023 nhu cầu sử dụng nguyên liệu nhựa PP sẽ tăng bình quân 11,38%, từ 1.420.081tấn năm 2019 lên 2,185,453 tấnnăm 2023.
Khả năng cung ứng của 3 nhà sản xuất nhựa PP nói trên sẽ giảm dần trong thời gian tới (dựa theo phân tích số liệu từ công suất thiết kế và thực tế ứng dụng của sản phẩm trong sản xuất thiết kế), đồng nghĩa với việc DN nhựa phải tìm kiếm nhập khẩu nguyên liệu PP từ nước ngoài.
Chính vì vậy, trong giai đoạn từ 2019 – 2023, VPA đề nghị không tăng thuế. "Để chính sách bảo hộ không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một ngành hàng thì đối tượng được bảo hộ cần phải chiếm tỷ lệ từ 50%-75% trở lên" - ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch VPA, kiến nghị.
VPA tính toán, theo giá nhập khẩu hiện tại, nếu tăng thuế nhập khẩu lên 5% thì chi phí phát sinh mà DN nhựa nhập khẩu từ các nước Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc... phải chi trả dự kiến trong 5 năm tới là trên 1.200 tỉ đồng.
Khi tăng thuế nhập khẩu, các DN có thể chuyển sang mua nguyên liệu PP từ các nước trong khu vực FTA. Tuy nhiên, các DN Việt Nam khi ấy không thể mua nguyên liệu PP với giá như trước đây (mặc dù thuế suất thuế nhập khẩu từ khu vực này là 0%) vì người bán sẽ nâng giá bán lên tương ứng với giá của các nước ngoài khu vực FTA. "Chi phí phát sinh lúc đó mà các DN phải chi trả dành cho các nước trong khu vực FTA dự kiến trong 5 năm tới sẽ là 3.628 tỉ đồng" – ông Hồ Đức Lam cho biết và dự báo hệ quả sẽ xảy ra là thành sản phẩm sẽ tăng, không cạnh tranh được với sản phẩm nhập khẩu từ các nước trong khu vực Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản.
Ông Lam nói thêm, khi xem xét về loại hình DN đang được đề nghị tăng mức thuế thì số vốn đầu tư chi phối quyền quyết định thuộc các DN nước ngoài, mà những đối tượng DN này đã được thụ hưởng hàng loạt các chính sách ưu đãi khi họ tham gia đầu tư tại Việt Nam như thuế đất, thuế thu nhập DN... Trong khi đó, các DN sản xuất sản phẩm chính là đầu ra của những DN có mặt hàng đề nghị tăng thuế lại gồng mình gánh chịu sự xâm nhập thị trường của những sản phẩm nhựa cùng loại từ các nước ký kết FTA có mức thuế suất về 0%. Điều này vô hình tạo nên sự bất bình đẳng ở mức độ cao trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành nhựa Việt Nam.