Bộ Tư pháp vừa có phúc đáp Công văn số 3076/BGTVT-VT ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Bộ Giao thông vận tải đề nghị góp ý dự thảo Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô (thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô).
Bộ cho rằng dự thảo Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô đã được Bộ Tư pháp thẩm định tại Báo cáo số 110/BC-BTP ngày 20/4/2017 và Báo cáo số 97/BC-BTP ngày 19/4/201 8. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp nêu trong văn bản trên và bám sát chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng tại Thông báo kết luận số 93/TB-VPCP ngày 12/3/2019 của Văn phòng Chính phủ để hoàn thiện dự thảo Nghị định trình Chính phủ.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, chỉnh sửa 7 vấn đề sau:
1. Khoản 2 Điều 3 dự thảo Nghị định đưa ra khái niệm kinh doanh vận tải bằng xe ô tô như sau: "Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô là việc thực hiện ít nhất một trong các công đoạn chính của hoạt động vận tải (trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe hoặc quyết định giá cước vận tải) để vận chuyển hành khách, hàng hóa trên đường bộ nhằm mục đích sinh lợi".
Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu lại quy định này. Theo quy định như trên thì bất kỳ đơn vị nào thực hiện một công đoạn trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe hoặc công đoạn quyết định giá cước vận tải đều bị coi là kinh doanh vận tải bằng xe ô tô nhưng dự thảo Nghị định chưa làm rõ thế nào là trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe, thế nào là quyết định giá cước vận tải sẽ dễ dẫn đến áp dụng không thống nhất. Bộ Tư pháp đề nghị chỉ coi là kinh doanh vận tải bằng xe ô tô trong trường hợp thực hiện trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe đồng thời quyết định giá cước vận tải.
Bộ Tư pháp nhất trí với việc bổ sung quy định để quản lý các doanh nghiệp kinh doanh vận tải bằng xe taxi đã ứng dụng phần mềm điều hành thay thế cho phương pháp điều hành truyền thống (sử dụng bộ đàm), khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới công tác quản lý, điều hành xe taxi nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng hiệu quả kinh doanh và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đề nghị cần nghiên cứu làm rõ thêm về bản chất của các loại hình vận tải ứng dụng phần mềm Grab , Uber... để có quy định quản lý cho phù hợp, bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh công khai, công bằng, minh bạch.
2. Khoản 5 Điều 6 dự thảo Nghị định bổ sung quy định "Trong thời gian 01 tháng xe taxi phải có thời gian hoạt động tại địa phương nơi cấp phù hiệu tối thiểu 70% tổng thời gian hoạt động trong tháng; xác định thời gian hoạt động được thực hiện thông qua dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình".
Bộ Tư pháp đề nghị bỏ quy định này, việc hạn chế thời gian xe taxi hoạt động tại địa phương nơi cấp phù hiệu là không có cơ sở pháp lý, không có cơ sở khoa học, mang tính chất áp đặt hành chính, tạo thuận lợi cho quản lý nhà nước, hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tương tự, đề nghị bỏ các quy định tại khoản 8 Điều 7, khoản 8 Điều 8 dự thảo Nghị định về vấn đề này.
3. Điểm c khoản 1 Điều 7 dự thảo Nghị định quy định "Xe ô tô có sức chứa dưới 09 chỗ sử dụng hợp đồng điện tử phải gắn bảng điện tử với chữ xe "XE HỢP ĐỒNG"...".
Bộ Tư pháp đề nghị bỏ quy định này vì điểm a, điểm b khoản 1 Điều 7 dự thảo Nghị định đã quy định tất cả các loại xe hợp đồng đều phải có phù hiệu "XE HỢP ĐỒNG", vì vậy, việc quy định như tại điểm c khoản 1 Điều 7 dự thảo Nghị định là không cần thiết.
4. Đề nghị xem lại điểm c khoản 3 Điều 7 dự thảo Nghị định quy định "Đơn vị kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng và lái xe: ... Không được đón, trả khách thường xuyên, lặp đi lặp lại hàng ngày tại trụ sở chính, trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện, tại một địa điểm cố định khác do đơn vị kinh doanh vận tải thuê, hợp tác kinh doanh".
Quy định này là không rõ mục tiêu quản lý, hạn chế đơn vị kinh doanh vận tải thực hiện dịch vụ vận chuyển, đưa đoàn cán bộ, công nhân viên theo hợp đồng cho các cơ quan, doanh nghiệp. Bộ Tư pháp cho rằng, việc quy định như dự thảo Nghị định còn mang nặng tính chất áp đặt hành chính, tạo gánh nặng cho việc giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.
5. Bộ Tư pháp tiếp tục đề nghị xem xét, bỏ quy định tại khoản 5 Điều 7 dự thảo Nghị định về việc đơn vị kinh doanh vận tải ô tô trước khi thực hiện vận chuyển phải thông báo đến Sở Giao thông vận tải nơi cấp Giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô thông tin về hành trình, thời gian thực hiện.
Việc yêu cầu thực hiện thủ tục thông báo sẽ thêm thủ tục hành chính, chi phí cho doanh nghiệp mà cũng không bảo đảm đạt được mục đích quản lý xe hợp đồng. Nếu cần thiết báo cáo để phục vụ mục đích thống kê, quản lý thuế, có thể yêu cầu doanh nghiệp báo cáo chi tiết thông tin theo định kỳ (hàng tuần, hàng tháng) để tiết kiệm thời gian và công sức cho doanh nghiệp và Sở Giao thông vận tải.
6. Điểm d khoản 1 Điều 13 dự thảo Nghị định quy định "không sử dụng xe cải tạo từ xe có sức chứa từ 09 chỗ trở lên thành xe ô tô dưới 09 chỗ (kể cả người lái xe)... để kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô".
Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc lại quy định này trên cơ sở làm rõ lý do của việc đưa ra quy định hạn chế này. Bộ Tư pháp cho rằng, việc hoán đổi xe có sức chứa từ 09 chỗ trở lên thành xe ô tô dưới 09 chỗ nếu không vi phạm quy định về an toàn kỹ thuật thì không nên hạn chế.
7. Dự thảo Nghị định tiếp tục duy trì cơ chế đơn vị kinh doanh vận tải phải thực hiện đăng ký để được cấp phù hiệu cho từng xe tham gia kinh doanh vận tải.
Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá lại sự cần thiết của quy định này. Quy định như dự thảo Nghị định có thể tạo cơ chế xin – cho, tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp, cần xem xét loại bỏ. Dự thảo Nghị định đã quy định doanh nghiệp phải có phù hiệu đối với xe kinh doanh vận tải, do đó, chỉ nên quy định mẫu phù hiệu và giao cho các đơn vị kinh doanh vận tải chịu trách nhiệm lắp phù hiệu theo đúng quy định.