Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/4/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 12,3 tỷ USD, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó có 984 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 6,8 tỷ USD, giảm 9,1% về số dự án và tăng 26,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 335 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3 tỷ USD, tăng 45,6%; có 3.210 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn gần 2,5 tỷ USD, giảm 65,3%.
Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 584 lượt góp vốn làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 0,9 tỷ USD và 2.626 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 5,2 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3.809,7 triệu USD, chiếm 74% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 543,4 triệu USD, chiếm 10,6%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 452,7 triệu USD, chiếm 8,8%.
Trong 4 tháng đầu năm, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4 tỷ USD, chiếm 59% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 32,9%, các ngành còn lại đạt 546,3 triệu USD, chiếm 8,1%.
Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 50,3% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,8 tỷ USD, chiếm 39,1%; các ngành còn lại đạt 1,1 tỷ USD chiếm 10,6%.
Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 40,6% tổng vốn; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đạt 508,2 triệu USD, chiếm 20,5%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 250,3 triệu USD, chiếm 10,1%; các ngành còn lại đạt 713 triệu USD, chiếm 28,8%.
Trong số 57 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 4 tháng đầu năm, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4.268,1 triệu USD, chiếm 62,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; Đài Loan 646,4 triệu USD, chiếm 9,5%; Trung Quốc 507,2 triệu USD, chiếm 7,5%; Đặc khu hành chính Hong Kong (TQ) 380,5 triệu USD, chiếm 5,6%; Hàn Quốc 376 triệu USD, chiếm 5,5%; Nhật Bản 194,2 triệu USD, chiếm 2,9%; Quần đảo Cay-man 100 triệu USD, chiếm 1,5%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm có 45 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 53,1 triệu USD; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 15,8 triệu USD.
Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 4 tháng đạt 68,9 triệu USD, trong đó lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 29,1 triệu USD, chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 15,2 triệu USD, chiếm 22,1%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 12 triệu USD, chiếm 17,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9 triệu USD, chiếm 13,1%.
Trong 4 tháng đầu năm có 18 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Myanmar là nước dẫn đầu với 21,2 triệu USD, chiếm 30,8%; Hoa Kỳ 20,5 triệu USD, chiếm 29,8%; Singapore 15,9 triệu USD, chiếm 23,1%; Campuchia 15,5 triệu USD, chiếm 22,5%.