Giá vàng hôm nay trên thế giới ghi nhận tăng nhẹ, bất chấp đồng bạc xanh và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng cao, sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ được công bố yếu hơn dự kiến. Ở thời điểm khảo sát lúc 7h sáng 2/7 , vàng thế giới đang giao dịch gần 2.331 USD/ounce, tăng 0,23% trong ngày.
Chỉ số PMI sản xuất toàn cầu của S&P tháng 6 của Mỹ là 51,6, tăng so với tháng trước nhưng thấp hơn dự báo 51,7. Trong khi đó, chỉ số PMI sản xuất của ISM trong tháng 6 là 48,5, thấp hơn ước tính 49,1 và giảm so với mức 48,7 của tháng 5.
Theo CME FedWatch Tool, tỷ lệ cược cho việc cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản của Fed vào tháng 9 đã tăng từ 58,2% (thứ Sáu tuần trước) lên 59,5%.
Hợp đồng tương lai lãi suất quỹ của Fed tháng 12/2024 tiết lộ Fed sẽ nới lỏng chính sách chỉ 35 điểm cơ bản (bps) vào cuối năm nay. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng gần 9 điểm cơ bản lên 4,489%, tiếp sức cho đồng bạc xanh tăng 0,09% lên 105,85 sau khi giảm 0,33% trong ngày.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với Kitco News, Christopher Vecchio, Trưởng phòng Giao dịch tương lai và Ngoại hối tại Tastylive.com cho biết, theo một số dữ liệu khu vực, Trung Quốc dường như đã mua vàng trong vài tuần cuối tháng 6.
Juan Carlos Artigas, Giám đốc nghiên cứu tại WGC cho biết, nhu cầu mua vàng khối lượng lớn của ngân hàng trung ương không chỉ ở một quốc gia. Ông chỉ ra rằng, ngày càng có nhiều ngân hàng trung ương đang tăng lượng dự trữ.
Vào tháng 5, Ngân hàng trung ương Ba Lan - Narodowy Bank Polski đã mua 10 tấn vàng; Ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ mua 6 tấn vàng; Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ mua 4 tấn vàng; và Ngân hàng Quốc gia Séc mua 3 tấn vàng. Ngân hàng bán nhiều nhất trong tháng 5 là Ngân hàng Quốc gia Kazakhstan, đã bán được 11 tấn vàng.
Các nhà giao dịch hiện đang chú ý đến bài phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell vào thứ Ba, sau đó là biên bản chính sách tiền tệ mới nhất của Fed vào thứ Tư. Tiếp đó, lịch trình kinh tế Mỹ sẽ là PMI dịch vụ từ S&P và ISM, tiếp theo là Bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ vào thứ Sáu.
Về kỹ thuật, giá vàng vẫn nghiêng về phía tăng, mặc dù vàng đang củng cố gần đường viền cổ Head-and-Shoulders từ 2.320 USD lên 2.350 USD. Mô hình biểu đồ giảm giá vẫn đang diễn ra, động lượng đã chuyển sang trung tính, với Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) giằng co lên đường 50 trung tính, cho thấy không kiểm soát được cả người mua và người bán.
Nếu vàng bị đẩy giá xuống dưới 2.300 USD, mức hỗ trợ tiếp theo sẽ là mức thấp nhất trong ngày 3/5 là 2.277 USD, tiếp theo là mức cao nhất ngày 21/3 là 2.222 USD. Tiếp theo, mục tiêu sẽ là mô hình biểu đồ Head-and-Shoulders từ $ 2,170 đến $ 2,160.
Mặt khác, nếu sức mua được đẩy lên, mức đầu tiên vàng chinh phục sẽ là 2.350 USD, sau đó là các mức kháng cự quan trọng như mức cao nhất trong chu kỳ ngày 7/6 là 2.387 USD, và 2.400 USD.
Vàng miếng trong nước tiếp tục nối dài chuỗi ngày ổn định ổn định giá. Giá vàng miếng SJC vẫn tiếp tục được 4 ngân hàng thương mại nhà nước gồm Agribank, BIDV, Vietcombank và VietinBank bán ra mức 76,98 triệu đồng/lượng.
Trong khi đó, thương hiệu Bảo Tín Minh Châu và Phú Quý đang niêm yết vàng miếng ở mức 75,5 - 76,98 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra).
Vàng miếng thương hiệu DOJI tại khu vực Hà Nội đang mua vào mức 75,3 triệu đồng/lượng và bán ra mức 76,98 triệu đồng/lượng. Tại TP Hồ Chí Minh, vàng thương hiệu này đang mua và bán ra mức tương tự như ở khu vực Hà Nội.
Giá vàng SJC ở khu vực Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh hiện cũng được Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết ở mức 74,98 - 76,98 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra).
Đối với vàng nhẫn , Tập đoàn DOJI niêm yết giá vàng nhẫn 9999 chi nhánh Hà Nội và TP Hồ Chí Minh ở mức 74,7 - 75,95 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), tăng 50.000 đồng ở cả 2 chiều so với sáng qua.
Tại Bảo Tín Minh Châu, doanh nghiệp này niêm yết vàng nhẫn ở mức (74,78 – 76,08 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), tăng 100.000 đồng/lượng so với hôm qua.
Tương tự, giá vàng nhẫn của Công ty Mi Hồng cũng đã được điều chỉnh tăng. Ở chiều mua vào, doanh nghiệp này tăng 300.000 đồng/lượng, chiều bán ra, tăng 200.000 đồng/lượng lên mức 74,3 - 75,5 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra).