Sau hơn 20 năm phát triển, cấu trúc thị trường vốn của Việt Nam đã được định hình rõ nét, gồm hai cấu phần chính là thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung, dài hạn, nhằm tạo ra kênh dẫn vốn hữu hiệu cho Chính phủ, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
CHƯA ĐẠT NHƯ KỲ VỌNG
Thống kê cho thấy, khi thị trường chứng khoán mới mở cửa năm 2000, vốn hóa thị trường chỉ đạt 986 tỷ đồng, tương đương 0,28% GDP. Các doanh nghiệp hầu như phải huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng. Nhưng đến nay, sau 2 thập kỷ, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam tính đến cuối năm 2020 tương đương 83% GDP năm 2019. Hàng trăm ngàn tỷ đồng đã được các doanh nghiệp, các ngân hàng huy động qua thị trường chứng khoán, tạo nên bức tranh cân đối của thị trường vốn Việt Nam, bên cạnh kênh tín dụng ngân hàng cũng có sự phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua.
Bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển lớn trong 20 năm qua, phát huy vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế.
Chỉ tính riêng năm 2020, mặc dù dịch Covid-19 tác động mạnh tới nền kinh tế, thị trường chứng khoán đã có những bước hồi phục mạnh mẽ, quy mô nhà đầu tư mới tham gia thị trường tăng cao nhất trong lịch sử và đẩy thanh khoản thị trường tăng mạnh.
Cụ thể, tính đến cuối tháng 2/2021, chỉ số VN-Index đạt 1.168,47 điểm, tăng 5,9% so với cuối năm 2020. Vốn hóa thị trường đạt 5.681 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3% so với cuối năm 2020, tương đương 90,3% GDP; giá trị giao dịch bình quân đạt 18.853 tỷ đồng/phiên, tăng 154% so với mức trung bình của năm 2020.
Tuy nhiên, theo bà Bình, còn cần nhiều nỗ lực để đạt được mục tiêu quan trọng là nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trên danh sách các thị trường mới nổi (Emerging Markets) trước năm 2025.
Còn theo ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính, mặc dù đã có sự phát triển vượt bậc so với những năm đầu mở cửa, song tỷ lệ huy động vốn qua thị trường chưa đạt kỳ vọng. Mức độ đa dạng hóa của hàng hóa trên thị trường hạn chế làm cho mức biến động trên thị trường cao.
Sau hơn 20 năm phát triển, cấu trúc thị trường vốn của Việt Nam đã được định hình rõ nét, gồm hai cấu phần chính là thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung, dài hạn, nhằm tạo ra kênh dẫn vốn hữu hiệu cho Chính phủ, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Hơn thế nữa, phát triển thị trường vốn sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước sớm hoàn thành quy trình quản trị công ty minh bạch, rõ ràng, đặc biệt là các công ty đại chúng có vốn nhà nước; qua đó thúc đẩy tăng khối lượng giao dịch trên thị trường, tăng tính thanh khoản cho cổ đông nhà nước. Phát triển thị trường vốn cũng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước tham gia huy động vốn theo hướng giảm tỷ trọng vay tín dụng thương mại, giảm áp lực tăng giá phí trong nước; đa dạng các hình thức huy động bổ sung vốn.
Theo nhiều chuyên gia, hoạt động tín dụng dần tới hạn khi tốc độ tăng tín dụng/GDP của Việt Nam vẫn ở mức cao trong khu vực. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm, tuy nhiên chưa đồng đều và chưa thực chất hỗ trợ doanh nghiệp. Cùng với đó, dịch bệnh Covid-19 chưa biết bao giờ kết thúc gây ảnh hưởng lên chuỗi giá trị toàn cầu, tạo áp lực với doanh nghiệp và làm dày lên nguy cơ nợ xấu...
Để phát triển thị trường vốn trong bối cảnh mới, theo ông Tiến, cần tập trung các giải pháp nhằm ổn định tâm lý nhà đầu tư, theo dõi sát các biến động về dòng vốn của nhà đầu nước ngoài để có những giải pháp, chính sách kịp thời, phù hợp. Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cần có các giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán, nhằm đa dạng hóa nguồn cung và ngành nghề trên thị trường, đồng thời giảm áp lực huy động vốn qua kênh ngân hàng.
ĐA DẠNG HOÁ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
Đặc biệt, để gắn sự phát triển của thị trường vốn với lộ trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025 cần triển khai 3 nhóm giải pháp.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị và trách nhiệm của người đứng đầu. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, chủ tịch UBND cấp tỉnh, chủ tịch hội đồng thành viên các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước với phê duyệt phương án cơ cấu lại doanh nghiệp, tổ chức và giám sát việc triển khai thực hiện có hiệu quả phương án được duyệt.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý về tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN về sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN và Nghị quyết số 60/2018/QH14 của Quốc hội; xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia thống nhất, đồng bộ về doanh nghiệp và vốn, tài sản của Nhà nước.
Thứ ba, thực hiện công khai thông tin đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước (trừ các doanh nghiệp có liên quan đến quốc phòng, an ninh), đảm bảo cho mọi đối tượng quan tâm có thể dễ theo dõi, giám sát, khai thác thông tin. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm giải trình về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; bảo toàn, phát triển vốn nhà nước trước cơ quan đại diện chủ sở hữu khi có yêu cầu.
Đại diện Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, đối với thị trường trái phiếu cần hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng, phát hành riêng lẻ để thi hành cùng Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp từ ngày 1/1/2021.
"Đối với thị trường tiền tệ, các chính sách của Ngân hàng Nhà nước một mặt cần duy trì môi trường lãi suất thấp, mặt khác cũng cần phải củng cố uy tín, độ tin cậy của Ngân hàng Nhà nước trong việc bảo vệ ổn định giá cả và điều hành chính sách tiền tệ. Việc duy trì lãi suất thấp và tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, qua đó cũng sẽ giảm áp lực lên lạm phát khi nền kinh tế đang hoạt động dưới mức sản lượng tiềm năng. Bên cạnh đó, môi trường lãi suất thấp có thể giúp các ngân hàng thương mại đang thiếu vốn có điều kiện thuận lợi tăng vốn đáp ứng các yêu cầu đủ vốn theo nguyên tắc Basel II", ông Tú Anh cho hay.
PHÁT TRIỂN CÂN BẰNG VỚI THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Ở góc nhìn của chuyên gia độc lập, TS.Cấn Văn Lực cũng cho rằng để phát triển hơn nữa thị trường vốn cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan, chú trọng phát triển trái phiếu doanh nghiệp, đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn gắn với niêm yết; đồng thời, nâng cao năng lực giám sát rủi ro hệ thống, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu thị trường.
"Trong kỷ nguyên mới, để phát triển thị trường vốn cân bằng với thị trường tín dụng, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2019; vận hành Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam; tiếp tục triển khai các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán; chú trọng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hơn", ông Lực nhấn mạnh.
Ngoài ra, cần thực hiện các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam lên nhóm thị trường mới nổi vào năm 2023.; nâng cao năng lực quản lý, giám sát rủi ro hệ thống; tăng tính độc lập của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. "Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi những nỗ lực nâng tầm quản trị doanh nghiệp, tính chuyên nghiệp của cộng đồng nhà đầu tư và khả năng điều hành thị trường của cơ quan quản lý", ông Lực khẳng định.