Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan , nhập khẩu phế liệu sắt thép của Việt Nam trong tháng 3/2025 đạt 567.508 tấn, trị giá 169,96 triệu USD, tăng 9,7% về lượng nhưng giảm 1,1% về trị giá so với tháng liền trước.
Tính chung 3 tháng đầu năm 2025, cả nước nhập khẩu 1,38 triệu tấn phế liệu sắt thép với trị giá 444,76 triệu USD, tăng 8,2% về lượng và giảm 10,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Giá nhập khẩu phế liệu sắt thép quý I/2025 đạt 320,9 USD/tấn, giảm khoảng 17% so với cùng kỳ năm.
Xét về thị trường nhập khẩu , Nhật Bản tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp phế liệu sắt thép cho Việt Nam trong quý I/2025, chiếm 56,7% thị phần, đạt 784.977 tấn, tương đương 263,88 triệu USD, tăng 13,67% về lượng nhưng giảm 6,33% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Giá bình quân đạt 336,1 USD/tấn, giảm 17,6% so với 3 tháng đầu năm 2024.
Mỹ là thị trường lớn thứ 2 ở mặt hàng phế liệu sắt thép, đạt 140.251 tấn, tương đương 42,93 triệu USD, chiếm 10,1% thị phần nhập khẩu phế liệu sắt thép của cả nước - tăng mạnh 49.57% về lượng và tăng 19,86% về kim ngạch. Giá trung bình 306,1 USD/tấn, giảm 19,8% về giá so với quý I/2024.
Vị trí thứ 3 thuộc về Hồng Kông (Trung Quốc) với 114.013 tấn phế liệu sắt thép nhập khẩu , trị giá 37,5 triệu USD, giảm 18,05% về lượng và 31,91% về kim ngạch. Giá trung bình 328,9 USD/tấn, giảm 16,9%.
Được biết, phế liệu sắt thép nhập khẩu vào Việt Nam nhằm phục vụ cho tái chế và sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Việc sử dụng phế liệu sắt thép giúp tiết kiệm chi phí, giảm tiêu thụ năng lượng, đồng thời hạn chế tác động đến môi trường.
Danh mục phế liệu sắt, thép, gang được nhập khẩu vào Việt Nam bao gồm Phế liệu và mảnh vụn của gang đúc (mã HS 7204 10 00); phế liệu và mảnh vụn của thép hợp kim: Bằng thép không gỉ (mã HS 7204 21 00); phế liệu và mảnh vụn của thép hợp kim: Loại khác (mã HS 7204 29 00); phế liệu và mảnh vụn của sắt hoặc thép tráng thiếc (mã HS 7204 30 00); phế liệu và mảnh vụn khác: Phoi tiện, phoi bào, mảnh vỡ, vảy cán, mạt cưa, mạt giũa, phoi cắt và bavia, đã hoặc chưa được ép thành khối hoặc đóng thành kiện, bánh, bó (mã HS 7204 41 00); phế liệu và mảnh vụn khác: Loại khác (mã HS 7204 49 00).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ những loại phế liệu đạt tiêu chuẩn về chất lượng, không chứa tạp chất nguy hại, không chứa chất thải công nghiệp, phóng xạ hoặc các thành phần gây ô nhiễm mới được phép nhập khẩu và đưa vào sản xuất. Trước khi thông quan, lô hàng phải trải qua quy trình kiểm tra, giám định nghiêm ngặt về chất lượng và mức độ an toàn đối với môi trường.
Tính đến thời điểm hiện tại, nguồn nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20-30% nhu cầu của ngành thép, phần còn lại phải nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc), Australia,...
Mỹ là một trong những nguồn cung cấp phế liệu sắt thép quan trọng cho Việt Nam. Hiện, Việt Nam và Mỹ chưa có hiệp định thương mại tự do song phương, nên hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ thường áp dụng thuế suất nhập khẩu ưu đãi.
Như vậy, mức thuế suất nhập khẩu đối với phế liệu sắt thép bao gồm các mã như HS 72041000, HS 72044100 và HS 72044900 vào khoảng 3% đối với sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ. Trong khi, các mã HS còn lại sẽ ở mức 0%.
Theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), Việt Nam đứng thứ 12 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN về sản xuất thép với quy mô sản xuất ước đạt khoảng 30 triệu tấn trong năm 2024.
Bước sang năm 2025, sản lượng sản xuất và tiêu thụ thép năm 2025 dự báo đạt lần lượt đạt 32,9 triệu tấn (tăng 12%) và 32,5 triệu tấn (tăng 11%) so với năm 2024 nhờ tăng trưởng giá trị xây dựng dân dụng và tồn kho ngành thấp. Tăng trưởng bán hàng nội địa và xuất khẩu là 14% và 3%. Giá bán sản phẩm thép nội địa dự báo tăng từ 5% - 8% trong năm 2025.