Khi điện than không còn rẻ
Giữa tháng 8/2021, Nikkei Asia đưa tin, Ngân hàng Phát triển châu Á ADB và Tập đoàn bảo hiểm Prudential (Anh) dự kiến sẽ công bố kế hoạch đầu tư đầy tham vọng nhằm giảm lượng khí thải carbon ở châu Á tại hội nghị khí hậu COP26 Liên hợp quốc vào tháng 11.
Kế hoạch này kêu gọi việc mua lại các nhà máy nhiệt điện than hiện có và dừng hoạt động các nhà máy này trong 15 năm, sớm hơn nhiều so với tuổi thọ thông thường của chúng, là 30-40 năm. HSBC cũng sẽ tham gia cùng trong chiến dịch này. Nikkei cho biết, hiện họ đang hướng tới Philippines, Việt Nam và Indonesia, trong việc tìm kiếm các nhà máy nhiệt điện than có thể được mua để đóng cửa sớm.
Đồng thời, với các mục tiêu giảm phát thải carbon được đặt ra bởi nhiều nhà đầu tư trên thế giới, việc xây dựng các dự án điện than mới sẽ có chi phí đầu tư cao hơn và các nhà máy hiện hữu sẽ phải đóng cửa sớm hơn thời hạn.
Các tổ chức tài chính của Nhật Bản, Hàn Quốc đã sớm có động thái siết chặt các khoản vay cho điện than. Ngay cả Trung Quốc, vốn là quốc gia hiếm hoi duy trì hỗ trợ tài chính cho các dự án này, mới đây cũng đã cam kết dừng tài trợ các dự án điện than mới ở nước ngoài, như Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát biểu tại một hội nghị Liên Hợp Quốc vào tháng 9 vừa qua. Việc này, không tránh khỏi, sẽ ảnh hưởng đến các dự án điện than mới tại nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Khó khăn trong việc thu xếp vốn cho các dự án điện than có thể sẽ là nguyên nhân chính gây ra nguy cơ thiếu điện do chậm tiến độ nguồn. Theo một nghiên cứu của Viện Năng lượng, các nguồn điện chậm tiến độ hiện nay tại Việt Nam phần lớn là điện than, chủ yếu do thiếu vốn, khó khăn trong việc thu xếp vốn, chậm trễ trong việc giao thiết bị, khó khăn trong đền bù và tái định cư...
Không chỉ có vậy, giá than cũng sẽ sớm trở thành một gánh nặng. Theo bà Ngụy Thị Khanh - Chủ tịch Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), từ xưa đến nay, chúng ta vẫn cho rằng điện than là năng lượng giá rẻ. Tuy nhiên, sự biến động của giá than trong thời gian qua cảnh báo rủi ro rất lớn về hệ lụy kinh tế nếu tiếp tục phát triển điện than. Giá than trong thực tế đã cao hơn cả so với dự báo năm 2045 đưa ra tại dự thảo Quy hoạch điện 8. Nếu tỷ trọng điện than tiếp tục tăng, trong khi giá than tiếp tục leo thang, áp lực lên các nhà máy điện sẽ ngày càng lớn.
Ngoài các tổ chức tài chính toàn cầu, trong vòng một năm qua, số lượng các tập đoàn đa quốc gia đưa ra các cam kết về mục tiêu carbon trung tính ngày càng tăng do chịu nhiều sức ép để giảm phát thải khí nhà kính trong các chuỗi cung ứng, vận hành, sản xuất và dịch vụ của mình. Với việc Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển hiện đại bằng việc thu hút nhiều hơn các tập đoàn nước ngoài lớn tới đặt các cơ sở sản xuất tại Việt Nam, điều rất quan trọng là đảm bảo nguồn điện mà các đơn vị này mua để sử dụng cho các hoạt động kinh doanh của mình phải bền vững, sạch và xanh.
Quy hoạch điện 8 vẫn chú trọng điện than
Việt Nam đang vận hành tổng cộng 21,3 GW công suất điện than tính tới cuối năm 2020, đóng góp vào 50% tổng sản lượng điện trên toàn quốc. Theo dự thảo Quy hoạch điện 8 mới đây, công suất nguồn điện than sẽ còn được tăng lên 40,9 GW vào năm 2030 và tới 50,9 GW vào năm 2035.
Trong số các dự án điện than đã được phê duyệt này, theo ước tính có khoảng 15,8 GW vẫn chưa thu xếp được tài chính.
Nhiều ý kiến chuyên gia cũng cho rằng, Quy hoạch điện 8 hiện vẫn còn chú trọng nhiều về điện than. Ông Lê Anh Tuấn, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Trường Đại học Cần Thơ cho rằng, việc cắt giảm khoảng 8.000 MW năng lượng tái tạo, trong khi tăng khoảng 3.000 MW điện than vào năm 2030 như Quy hoạch điện 8 sẽ tạo ra những tác động rất lớn về kinh tế, môi trường và xã hội.
"Nếu chúng ta xét những tác động về mặt môi trường, thì rõ ràng nguồn năng lượng hoá thạch sẽ tạo ra những tác động rất xấu", ông cho biết và dẫn chứng các nhà máy điện than ở miền Bắc, miền Trung đã có những bài học rất lớn về tác động cho môi trường.
Nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA) đánh giá tác động của các nhà máy nhiệt điện than ở 10 địa phương dự kiến bổ sung theo dự thảo Quy hoạch điện 8 tính toán rằng, nếu 16 dự án điện than mới (với tổng công suất khoảng 22GW) được xây dựng và vận hành theo dự thảo Quy hoạch điện 8, tổn thất kinh tế cho xã hội do chi phí y tế, giảm năng suất lao động và tuổi thọ ước tính vào khoảng 270 triệu USD hàng năm. Tính theo vòng đời 30 năm của những dự án này, tổn thất kinh tế cộng dồn sau 30 năm lên tới 8 tỷ USD.
Đề xuất phương án khả thi nào thay thế cho điện than?
Mới đây, các chuyên gia quốc tế đến từ Tập đoàn Wärtsilä đã thực hiện một nghiên cứu tìm hiểu về tác động của sự thay đổi trong thị trường vốn lên tới 15,8 GW nguồn điện than mới trong dự thảo Quy hoạch điện 8. Nghiên cứu tập trung vào việc tìm ra một cơ cấu công suất tối ưu để đưa ra một Phương án thay thế khi 15,8 GW điện than sẽ gặp khó khăn trong việc thu xếp vốn. Trong tổng công suất 15,8 GW, có 5,8 GW được quy hoạch trước năm 2030 và 10GW được quy hoạch sau năm 2030.
Mô hình nghiên cứu đã đề xuất xây dựng một cơ cấu nguồn điện bao gồm 1,1 GW điện mặt trời và 1,3 GW điện gió, hỗ trợ bởi 0,7 GW điện khí linh hoạt (ICE) trước năm 2030. Lượng công suất này từ các nguồn điện gió, điện mặt trời và điện khí linh hoạt này có thể là một giải pháp tối ưu để thay thế cho 15,8 GW điện than đã được quy hoạch trước năm 2030. Biểu đồ dưới đây thể hiện công suất được đề xuất để thay thế các dự án điện than chưa thu xếp được tài chính tại Việt Nam:
Ngoài lượng công suất năng lượng tái tạo đã được đề xuất trong dự thảo Quy hoạch điện 8 mới đây, nghiên cứu đã đề xuất xây dựng thêm tổng cộng 5,6 GW điện gió và 4,9 GW điện mặt trời trước năm 2045. Điều này sẽ giúp cho Việt Nam có thể hạn chế thêm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và giảm chi phí điện khi nguồn điện tái tạo không sử dụng nhiên liệu và giá thành ngày càng giảm nhanh, và để giảm lượng khí thải cho hệ thống điện.
Mô hình cũng đề xuất xây dựng thêm 8,5GW điện khí linh hoạt (ICE) trước năm 2045 để hỗ trợ cho nguồn điện gió và mặt trời trong tương lai do các đặc tính công nghệ ICE phù hợp cho việc cân bằng hệ thống và hạn chế cắt giảm công suất các nguồn tái tạo trong khi đảm bảo nguồn cung ứng điện được ổn định. Việc xây dựng nguồn điện khí linh hoạt trong hệ thống cũng sẽ góp phần giải quyết mối lo thiếu điện vào các giai đoạn mùa khô.
Ảnh minh họa: Nhà máy điện Manantiales Behr
Kết quả của nghiên cứu cho thấy những con số đáng kể về tiết kiệm chi phí hệ thống và giảm phát thải Nghiên cứu cho thấy các lợi ích của việc thay thế các dự án điện than chưa thu xếp được tài chính bằng một tổ hợp bao gồm điện gió, điện mặt trời và điện khí linh hoạt (ICE):
Thứ nhất, nếu thực hiện theo phương án này, tỷ trọng năng lượng tái tạo về sản lượng sẽ được tăng từ 32% lên 34% vào năm 2030 và từ 41% lên 45% vào năm 2045. Thứ hai, chi phí hệ thống (CAPEX – đầu tư, OPEX – vận hành) sẽ được giảm thông qua việc thay thế các dự án điện than đã được phê duyệt nhưng chưa thu xếp tài chính được bằng tổ hợp năng lượng tái tạo và điện khí linh hoạt (ICE) sẽ có thể lên tới 24 tỷ USD vào năm 2045. Đồng thời, việc bổ sung thêm nguồn năng lượng tái tạo vào hệ thống điện sẽ giúp cho giảm 15% lượng khí thải CO2 vào năm 2045.
Tại hội nghị COP26 đang diễn ra tại Glasgow, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra mục tiêu giảm phát thải carbon về bằng 0 (net zero) vào năm 2050. Do vậy, đã đến lúc Việt Nam nên cân nhắc trong việc đầu tư các dự án điện than mới và PDP8 nên xem xét phương án thay thế trong trường hợp các dự án điện than mới chưa thu xếp được tài chính bằng việc xây dựng thêm các nguồn điện tái tạo và điện khí linh hoạt.
Bà Malin Östman, Giám đốc Phát triển thị trường & Chiến lược cho khu vực c hâu Á & Trung Đông của Wärtsilä nói: "Những dự án điện than chưa thu xếp được tài chính sẽ gặp phải nhiều khó khăn để có thể triển khai. Các nước với các dự án điện than đã được quy hoạch nên nghiên cứu các phương án khác để có những giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng. Chúng ta có thể tìm hiểu một số ví dụ trên toàn cầu về lộ trình hướng tới phát thải ròng (net zero) và nghiên cứu này của chúng tôi đã thể hiện rằng năng lượng tái tạo có khả năng trở thành một nguồn điện với chi phí hợp lý và độ tin cậy cao khi có đủ sự linh hoạt trong hệ thống điện".
"Tiếp tục phát triển khoảng 30 GW điện than trong giai đoạn 2021-2045 theo dự thảo Quy hoạch điện VIII hiện nay có thể sẽ rất rủi ro khi hơn một nửa công suất điện than được quy hoạch chưa và khó có thể thu xếp được tài chính trước những cam kết dừng cấp vốn của các quốc gia và tổ chức tài chính. Việc đó có thể khiến Việt Nam có nguy cơ rơi vào tình trạng thiếu điện, đồng thời đặt Việt Nam ở chiều ngược lại với xu thế chuyển dịch xanh của thế giới và nỗ lực thực hiện mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris.
Trong khi đó Việt Nam đang đứng trước cơ hội thuận lợi để phát triển nguồn năng lượng sạch với sự cổ vũ và cam kết hỗ trợ của các đối tác quốc tế, cộng đồng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hi vọng Chính phủ sẽ có quyết định sáng suốt để nắm bắt cơ hội đó", bà Nguyễn Thị Hằng, Quản lý Chương trình Chuyển dịch Năng lượng Công bằng, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) nhận định.