Khi được hỏi về thành công của mình với tư cách là một người lính và một chính trị gia, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã trả lời: Bất cứ lúc nào tôi gặp phải vấn đề không thể giải quyết, tôi luôn luôn xới to nó lên. Tôi không thể giải quyết nó bằng cách cố gắng ép nó nhỏ đi, nhưng nếu tôi làm cho nó đủ lớn, tôi có thể nhìn thấy bản phác họa của giải pháp”.
Cách tiếp cận của Eisenhower có thể tương tự với tình hình của sông Mekong ngày nay.
Trong khi vẫn là láng giềng, ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam lại rất khác nhau diện tích, dân số, độ phong phú của tài nguyên thiên nhiên, và trình độ phát triển kinh tế. Lợi ích của ba nước này cũng không nhất thiết phải trùng hợp.
Trên thực tế, khi bàn đến lợi ích gắn với sông Mekong, ba nước này rõ ràng là bất đồng. Khi đắp đập ở thượng nguồn hai con sông Sesan và Srepok, Việt Nam bây giờ lại thấy quan ngại về nguồn nước và phù sa cung cấp choĐồng bằng sông Cửu Long (hạ lưu dòng Mekong), vốn hết sức quan trọng về kinh tế. Thiếu nguồn phù sa đủ để bố sung cho đất, vùng châu thổ này sẽ bị chìm xuống so với Biển Đông – một vấn đề nảy sinh bởi sự kết hợp giữa sự thiếu nước bơm đầy đủ cho đồng bằng và độ tăng của nước biển.
|
Hình ảnh công trình xây dựng đập thủy điện Xayaburi của Lào trong quá trình gấp rút hoàn thành (tháng 4/2016). Ảnh: TTO |
Lào lại coi sông Mekong chính là nguồn tài nguyên phục vụ cho thủy điện, chủ yếu để xuất khẩu sang Thái Lan, tạo ra nguồn thu để phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở việc xây dựng các đập thủy điện thu hút sự chú ý của dư luận trong vòng 15 năm qua, kể cả ba đập trên dòng sông chính Mekong.
Campuchia, nơi biển hồ Tonle Sap khởi nguồn - chính là địa điểm đánh bắt thủy sản nước ngọt lớn nhất thế giới, lại tỏ ra thận trọng hơn với thủy điện vì nó ảnh hưởng tới ngành thủy sản của một đất nước mà dân số phụ thuộc tới 75% vào nguồn cung cấp đạm động vật từ thủy sản nước ngọt. Thế nhưng do mức độ điện khí hóa còn ở mức thấp và hầu như phụ thuộc vào điện nhập khẩu đắt đỏ, hiện nước này đang có một nhu cầu bức thiết phải phát triển các nguồn năng lượng nội địa.
Thủy điện hiện đang được coi là phương án ưu tiên, bất chấp các nguy cơ về an ninh thực phẩm. Cuối năm 2017, nhà máy thủy điện công suất 400 MW Hạ lưu Sesan 2 đã được khánh thành, và ngăn cho dòng lưu thông tự nhiên của cá di cư và ngăn gần như hoàn toàn dòng phù sa từ thượng nguồn.
Những lợi ích khác nhau đó đã khiến 3 nước Đông Dương chưa thực sự tìm được tiếng nói chung. Việt Nam coi sự sống sót của Đồng bằng sông Cửu Long, nơi chịu trách nhiệm cung ứng 50% tổng sản lượng lúa gạo và 75% tổng sản lượng hoa quả giá trị cao, cũng như sản xuất thủy sản, là một vấn đề an ninh quốc gia.
Lào, quốc gia thu được một ít ngoại hối để tạo ra những giá trị khác, vẫn quyết tâm xây dựng thêm đập, vì vấn đề an ninh năng lượng. Còn Campuchia đang cân nhắc xây thêm 2 con đập lớn, Stung Treng và Sambor, trên sông mẹ Mekong.
Bất kể những con đập như vậy có ý nghĩa kinh tế hay không, chúng vẫn gây ra câu hỏi ngày càng lớn về sự sụt giảm nghiêm trọng của năng lượng mặt trời và gió, góp phần vào quyết định của Thái Lan ngừng hợp đồng mua điện của nhà máy thủy điện Pak Beng của Lào. Một minh chứng rất rõ cho việc công nghệ đã phát triển nhanh như thế nào là việc chính phủ Campuchia bị bắt buộc phải mua điện của nhà máy Trung Quốc LS2 theo một hợp đồng có giá trị 10 năm, với giá 7 xen một KW giờ, cũng tương đương với giá năng lượng mặt trời hiện nay, nhưng với chi phí môi trường đắt hơn nhiều (riêng chỉ LS2 dự kiến sẽ làm giảm sản lượng thủy sản của lưu vực con sông này khoảng 10%.
Tại Lào, thủy điện gần như nằm dưới sự độc quyền của các công ty nước ngoài, chủ yếu là Thái Lan và Trung Quốc, và thu được rất ít thuế từ các hợp đồng BOOT (xây dựng – nắm giữ - vận hành – chuyển giao) này. Campuchia đang để mở mọi khả năng.
Trước vô vàn khác biệt về lợi ích, địa chính trị, các nước Đông Dương vẫn đang nỗ lực đi tìm tiếng nói chung.Những định hướng riêng biệt về nguồn nước thực tế sẽ hạn chế qui mô hợp tác, vì không có giải pháp nào làm hài lòng tất cả. Mặc dù vậy, vẫn có trường hợp cả Campuchia, Lào và Việt Nam có thể đề nghị với nước láng giềng khác. Lào và Campuchia đáp ứng những quan ngại của Việt Nam, bằng cách đặt ưu tiên vào những con đập tạo ảnh hưởng xấu ít nhất với hạ nguồn, và phát triển những loại năng lượng không phải thủy điện. Và Việt Nam cũng có nhiều thứ để đề nghị.
Việt Nam có thể đầu tư vào lưới điện quốc gia của Lào và cho phép Lào thu phí truyền tải, vì vậy vừa giảm thiểu sự phụ thuộc vào thủy điện, vừa cung cấp cơ hội kiếm thêm dòng thu nhập. Mạng lưới điện quốc gia ở Lào sẽ thúc đẩy quá trình xây dựng các nhà máy điện mặt trời và phong điện, và cho phép việc kinh doanh điện trong khu vực. Kết hợp với nhau, những biện pháp này sẽ đạt được các mục tiêu đề ra với phi phí thấp hơn, và số lượng đập thủy điện giảm hẳn. Tương tự như vậy, Việt Nam có thể giúp Campuchia thúc đẩy việc điện khí hóa nông thôn và thu ngoại tệ bằng cách xây dựng các nhà máy điện mặt trời cỡ lớn, nơi mà đất đai rẻ hơn nhiều. Điều này sẽ giúp giảm đi nhu cầu về xây dựng các đập.
Việt Nam cũng đang nỗ lực tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực tài nguyên khác. Ví dụ, Campuchia và Lào không thể thi hành luật bảo vệ rừng và động vật hoang dã nếu thiếu sự hợp tác chủ động từ phía Việt Nam.
Theo như châm ngôn của Eisenhower về việc xới tung vấn đề để giải quyết nó, việc mở rộng hợp tác vượt quá khuôn khổ nguồn nước tiến tới năng lượng và các lĩnh vực tài nguyên khác sẽ mở ra những cơ hội mới cho hợp tác khu vực trên cơ sở có qua có lại và hiệp lực. Cách tiếp cận này sẽ giúp chuyển cuộc tranh luận về cuộc chơi zero sum (tôi thắng – anh thua) sang cuộc chơi cùng thắng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Người ta có thể hình dung Campuchia, Lào và Việt Nam đang đàm phán một hợp đồng khổng lồ, gồm nguồn nước, năng lượng, gỗ và động vật hoang dã, để giúp mỗi nước có thể đạt được những mục tiêu phát triển, với rủi ro về môi trường, xã hội và chính trị thấp hơn nhiều. Vì các nền kinh tế phát triển và trở nên phụ thuộc lẫn nhau, những ưu việt của thỏa thuận hai bên cùng có lợi sẽ tăng lên. Và Việt Nam, một nước với trình độ phát triển cao nhất và lại dễ tổn thương nhất đối với các hậu quả của thủy điện thượng nguồn trong ba nước, có đủ năng lực và lợi ích cá nhân để dẫn dắt quá trình đàm phán này.