Cần nhiều nguồn lực đầu tư
Theo các chuyên gia, quy hoạch cảng hàng không, sân bay không đơn thuần như quy hoạch dự án giao thông hay khu kinh tế bình thường.
Để quy hoạch cảng hàng không, sân bay cần có tới 30 tiêu chí về đảm bảo an ninh, an toàn hàng không. Vấn đề cốt lõi là không chỉ có đất đã làm được sân bay, phải nghiên cứu kỹ lưỡng phương thức hạ, cất cánh, hướng gió, khí hậu, thời tiết trong 5 - 10 năm... để định hình một đường bay ổn định.
Cảng hàng không quốc tế Nội Bài: Ảnh: Huy Hùng/TTXVN.
Theo ông Lê Đỗ Mười, Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển GTVT, không thể chỉ căn cứ nhu cầu nhà đầu tư mà đưa vào quy hoạch càng hàng không, cần phải có khung tổng thể phát triển cho toàn vùng và toàn xã hội. Nếu nhu cầu có thật, xuất phát điểm nhu cầu của vùng, của địa phương có thật mới có thể đưa vào quy hoạch. Khi đó, nhà đầu tư cần khảo sát kỹ, đánh giá thời gian thu hồi vốn, chứ không phải quy hoạch xong rồi nhà đầu tư không đầu tư nữa để thành quy hoạch treo, gây lãng phí.
Rà soát của Vụ Kế hoạch đầu tư (Bộ GTVT) cho biết, nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021 - 2030 quy hoạch 28 cảng hàng không cần khoảng hơn 403.000 tỷ đồng, trong số này, Tổng công ty Cảng hàng không (ACV) cân đối được khoảng 265.000 tỷ đồng, Bộ GTVT cân đối được hơn 9.800 tỷ đồng, còn lại vốn cần huy động từ các nguồn lực khác khá lớn. Trong khi, các hợp đồng BOT đầu tư hạ tầng hàng không kéo dài tới 20 - 25 năm, nên giai đoạn tới phải tiếp tục huy động nhiều nguồn lực mới đáp ứng được quy hoạch.
Qua tìm hiểu, các cảng hàng không, sân bay của Việt Nam hiện nay có không nhiều sân bay có lãi, ngoài những sân bay trọng điểm của Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Ngay cả sân bay Phú Quốc dù phát triển nhưng cũng chưa hòa vốn. Theo ông Phạm Ngọc Sáu, Giám đốc Cảng Hàng không quốc tế Vân Đồn, để đầu tư một sân bay hòa vốn có thể lên tới vài chục năm, không có chuyện chỉ trong vài ba năm...
Cách nào huy động vốn làm hạ tầng hàng không?
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 479.600 tỷ đồng. Trong số này, nguồn vốn xã hội cần huy động khoảng 204.615 tỷ đồng (Nhu cầu vốn đầu tư các công trình thiết yếu của cảng hàng không khoảng 403.000 tỷ đồng).
Riêng 2 sân bay Long Thành và Nội Bài chiếm gần nửa vốn đầu tư, gồm: 109.000 tỷ đồng đầu tư cho sân bay Long Thành (một đường cất, hạ cánh, đường lăn, sân đỗ và nhà ga T1) và số tiền đầu tư khu phía Bắc, nhà ga hành khách T3 và khu bay phía Nam của sân bay Nội Bài hơn 96.500 tỷ đồng.
Danh sách các sân bay khác có nhu cầu đầu tư ở mức khoảng 10.000 tỷ đồng trở lên gồm: Tân Sơn Nhất (hơn 12.200 tỷ đồng), Cam Ranh (gần 20.000 tỷ đồng), Đà Nẵng (hơn 18.800 tỷ đồng), Cát Bi (hơn 10.600 tỷ đồng), Vinh (hơn 14.400 tỷ đồng), Phú Bài (hơn 13.300 tỷ đồng), Phú Quốc (hơn 12.600 tỷ đồng), Phan Thiết (gần 11.000 tỷ đồng)...
Tại Đề án Định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không vừa được Cục Hàng không Việt Nam (CHKVN) trình Bộ GTVT, Cục đã kiến nghị phân loại 21 sân bay hiện hữu do ACV quản lý thành 5 nhóm để xã hội hóa đầu tư.
Cụ thể, nhóm 1 gồm các sân bay: Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc, Long Thành, Tân Sơn Nhất. Đây là các cảng hàng không quốc tế quan trọng của quốc gia, có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 25 triệu hành khách/năm. CHKVN đề xuất Bộ GTVT bố trí vốn đầu tư khu bay; ACV bố trí vốn đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại; huy động 100% nguồn vốn xã hội để đầu tư các công trình dịch vụ hàng không và phi hàng không theo hình thức đầu tư kinh doanh.
Nhóm 2 gồm các sân bay: Thọ Xuân, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa. Đây là các sân bay có hoạt động quân sự, huấn luyện quân sự thường xuyên, tài sản và đất đai khu bay do Bộ Quốc phòng quản lý. Trường hợp Bộ Quốc phòng bàn giao khu bay cho Bộ GTVT hoặc địa phương quản lý, sẽ huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ sân bay theo hình thức đối tác công - tư (PPP) sử dụng tài sản kết cấu hạ tầng hiện có để tham gia dự án.
Nhóm 3 gồm các sân bay: Điện Biên, Nà Sản, Đồng Hới, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, vốn là các cảng hàng không ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, cân đối thu chi khó khăn, có công suất quy hoạch đến năm 2030 nhỏ hơn 5 triệu hành khách/năm.
Nhóm 4 gồm các sân bay: Cát Bi, Vinh, Phú Bài, Liên Khương, Cần Thơ, có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 5 triệu hành khách/năm, có tiềm năng phát triển, có khả năng thu hút các nhà đầu tư, không có hoạt động quân sự thường xuyên. Với nhóm 3 và nhóm 4, CHKVN đề xuất Bộ GTVT chuyển giao khu bay và ACV chuyển giao các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại cho địa phương huy động nguồn lực đầu tư theo hình thức PPP.
Nhóm 5 là các cảng hàng không mới như: Sa Pa, Quảng Trị, Lai Châu và các cảng hàng không tiềm năng như: Cao Bằng, Hải Phòng (Tiên Lãng), cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô. CHKVN kiến nghị huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ theo hình thức PPP và giao UBND các tỉnh có quy hoạch sân bay mới là cơ quan có thẩm quyền đầu tư, chủ động huy động, tổ chức thực hiện đầu tư.
Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn, để khai thác hết tiềm năng của địa phương, vùng, phải có hạ tầng giao thông hiện đại, trong đó có hàng không. Bộ GTVT sẽ tiếp tục tổng hợp những vướng mắc của các địa phương, tham mưu cho Chính phủ ban hành những chính sách, cơ chế, hành lang pháp lý tạo điều kiện cho đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không.