Tuy nhiên, không dễ để điện khí LNG tạo ra bước nhảy vọt mạnh mẽ như đã từng diễn ra trong lĩnh vực điện mặt trời thời gian vừa qua. Theo đó, sau những háo hức ban đầu, các nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về chính sách, nguồn vốn và thị trường. Đặc biệt, phần nhiều trong số này sẽ rất khó giải quyết, báo cáo khẳng định.
Năm 2020 đã chứng kiến một làn sóng các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm đến lĩnh vực điện khí tại Việt Nam. Đáng chú ý, sự quan tâm này ngày càng mạnh mẽ sau khi Bộ Chính trị, cơ quan hoạch định chính sách cấp cao nhất của Việt Nam đã công bố nghị quyết định hướng chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam trong thập kỷ tới, với tầm nhìn đến năm 2045.
Như vậy, Nghị quyết này giới hạn sự tăng trưởng của nhiệt điện than và chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí LNG và hạ tầng nhập khẩu và phân phối khí. Quy mô của các dự án được đề xuất cũng như số lượng và sự đa dạng của các nhà đầu tư được đánh giá là chưa có tiền lệ trong lịch sử ngành điện Việt Nam.
Đóng góp lớn trong sự sôi động của lĩnh vực này hầu hết đến từ các dự án gắn với các nhà đầu tư và nhiên liệu nhập khẩu từ Hoa Kỳ, cùng với các tập đoàn năng lượng hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc và một số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Trong đó, chỉ có 9 dự án đã được phê duyệt bổ sung vào quy hoạch điện hiện tại. Trong đó, có 5 dự án đã có chủ đầu tư và có thể tiến đến bước đàm phán hợp đồng mua bán điện (PPA) với EVN. Trong khi đó, nhiều dự án lớn như LNG Long Sơn, LNG Cà Ná, LNG Long An và LNG Quảng Ninh vẫn chưa công bố chủ đầu tư chính thức.
Song, IEEFA chỉ rõ, phát triển dự án điện khí không phải là một quá trình dễ dàng. Thực tế thời gian qua một số nhà đầu tư đã tự đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng về các mốc thời gian hoàn thành các giai đoạn triển khai dự án, bất chấp tính phức tạp của dự án nhiệt điện khí LNG nói chung. Sự thật đây là những dự án gồm nhiều giai đoạn, với nhiều cấu phần luôn biến động, và nhiều rủi ro - rủi ro ở khâu thượng nguồn, hạ nguồn, rủi ro đối tác, rủi ro trong quá trình thi công, và nhiều rủi ro khác.
Báo cáo viết: "Các dự án nhiệt điện khí, do vậy, sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai hơn các dự án nhiệt điện than vốn đã phải đối mặt với tình trạng chậm tiến độ triền miên".
Bên cạnh đó, mặc dù thông tin về các dự án nhiệt điện khí LNG ở Việt Nam đã và đang tạo ra ấn tượng rằng phần lớn các dự án này đang dễ dàng vượt qua quy trình cấp phép tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thực tế hoàn toàn phức tạp hơn nhiều. Để có thể đánh giá chính xác triển vọng thị trường nhiệt điện khí ở Việt Nam, "cần hiểu được các rào cản chính sách đứng giữa các dự án này và vạch đích".
Thực tế, những thay đổi về luật pháp của Việt Nam đang khiến cho việc áp dụng các mô hình dự án phổ biến như xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) và nhà máy điện độc lập (IPP) cho lĩnh vực điện khí LNG không còn dễ dàng. Đây là vấn đề ảnh hưởng lớn đến khả năng thu xếp tài chính của các dự án.
IEEFA nêu rõ, giới đầu tư nước ngoài đã bày tỏ lo ngại khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư (Luật PPP) có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, bắt buộc áp dụng luật Việt Nam để giải thích hợp đồng và không có quy định cụ thể về bảo lãnh Chính phủ đối với nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp nhà nước như EVN.
Đồng thời, Luật Đầu tư mới có hiệu lực vào ngày 1/1/2021 không quy định rõ về việc cung cấp các cam kết bảo lãnh của Chính phủ hay chuyển đổi ngoại tệ. Các dự án nhiệt điện khí LNG thuộc dạng IPP cũng sẽ phải tuân theo một hợp đồng PPA mẫu được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam, theo đó nhà máy điện sẽ phải cạnh tranh trên thị trường bán buôn, và chỉ được bao tiêu với số lượng hạn chế từ EVN.
IEEFA nhận định: "Khung pháp lý cập nhật cho các mô hình dự án BOT hay IPP có vẻ không tương thích với các điều khoản hợp đồng mà các chủ đầu tư dự án nhiệt điện khí LNG đang đòi hỏi từ phía EVN và các cơ quan Chính phủ để đảm bảo khả năng vay vốn cho dự án. Đối với các dự án đã đi đến bước đàm phán PPA với EVN, phần khó khăn nhất của quá trình phát triển dự án mới chỉ thực sự bắt đầu".
Theo IEEFA, giá điện khí chắc chắn sẽ không hề rẻ, và điều này đã được các cơ quan chức năng và một số chủ đầu tư dự án thừa nhận một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. "Trên thế giới, các chuyên gia đều đồng thuận rằng chi phí biên của điện mặt trời, điện gió và các giải pháp pin tích trữ sẽ ngày càng giảm trong dài hạn, trong khi điều này không thể xảy ra với LNG và nhiệt điện khí LNG".