Đại dịch ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, nhưng Việt Nam đã có những bước đi quyết liệt để hạn chế suy giảm kinh tế và khủng hoảng y tế.
Việc áp dụng nhanh chóng các biện pháp ngăn chặn, kết hợp với truy tìm tiếp xúc tích cực, kiểm tra mục tiêu và cách ly các trường hợp nghi nhiễm Covid-19, đã giúp giữ cho tỷ lệ mắc và tử vong bình quân đầu người rất thấp.
Việc ngăn chặn thành công dịch bệnh, cùng với hỗ trợ chính sách kịp thời, cũng giúp hạn chế sự suy giảm kinh tế.
Năm 2020, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9%, mức cao hàng đầu trên thế giới, nhờ có sự phục hồi sớm của các hoạt động kinh tế trong nước, cùng với xuất khẩu tăng mạnh, đặc biệt là hàng công nghệ cao, trong bối cảnh mọi người trên thế giới làm việc tại nhà khiến cầu hàng điện tử tăng.
Việt Nam bước vào đại dịch với nền tảng kinh tế ổn định và vùng đệm chính sách vững chắc, mặc dù vẫn còn một số thách thức về cơ cấu cần giải quyết.
Đầu tư nước ngoài và thặng dư tài khoản vãng lai đã tăng cường khả năng phục hồi của nền kinh tế. Sức khỏe của hệ thống ngân hàng được cải thiện, với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn và ít nợ xấu hơn trong quá khứ, mặc dù điểm yếu vẫn còn.
Việt Nam cũng đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc củng cố tài chính công trước Covid-19. Việc xây dựng các vùng đệm trước đại dịch khiến Việt Nam có khả năng chống chọi tốt hơn với cú sốc.
IMF cũng nhận định, vẫn còn dư địa đáng kể để Việt Nam thúc đẩy năng suất và cải thiện khả năng phục hồi kinh tế.
IMF cho rằng, các chính sách hỗ trợ kinh tế vĩ mô sẽ cần được duy trì vào năm 2021 để đảm bảo phục hồi một cách bền vững và toàn diện.
Thị trường lao động Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề trong quý II năm 2020, đặc biệt là khu vực kinh tế phi chính thức - những người còn hạn chế về khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội. Cho dù đã dần phục hồi, sự yếu kém vẫn còn đó. Các chính sách trong ngắn hạn cần tập trung vào việc duy trì việc làm và thúc đẩy sự phân bổ lại các nguồn lực.
Ví dụ, chính phủ có thể áp dụng trợ cấp tuyển dụng và các chính sách khuyến khích đào tạo việc làm. Mạng lưới an sinh xã hội hiện có cần được mở rộng và nâng cao hiệu quả. Theo thời gian, các chính sách nên hướng tới mục tiêu giảm thiểu tình trạng phi chính thức trong lao động bằng cách cải thiện kỹ năng lao động và giảm chi phí thuê / sa thải đối với lao động chính thức, đồng thời khuyến khích chính thức hóa doanh nghiệp.
Sự phục hồi bền vững cũng phụ thuộc vào việc bảo vệ sự ổn định tài chính. Các doanh nghiệp ở Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng với bảng cân đối kế toán tương đối yếu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thường nằm trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất như dịch vụ.
Các chính sách tiền tệ, tài khóa do chính phủ thực hiện đã giúp giảm thiểu nguy cơ phá sản và sa thải hàng loạt. Những chính sách hỗ trợ như vậy nên được nhắm mục tiêu tốt hơn.
Việt Nam cũng cần có những cải cách quyết định hơn để tận dụng tối đa tiềm năng tăng trưởng lớn của mình. Điều này đòi hỏi phải giải quyết các rào cản hiện hữu.
Ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải cách hướng tới giảm gánh nặng pháp lý mà các doanh nghiệp phải đối mặt, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực của họ, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ và đổi mới,... Những cải cách như vậy sẽ giúp Việt Nam gặt hái được nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sau đại dịch.