Nhưng ông Rhee cũng cảnh báo rằng tất cả các dự báo là không chắc chắn, do các quốc gia trong khu vực đang ở các giai đoạn khác nhau của đại dịch và nguy cơ dịch kéo dài là rất cao.
"Dự báo tăng trưởng toàn cầu rất không chắc chắn" ông Rhee nhận định. "Nhiều quốc gia phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng đa chiều bao gồm khủng hoảng sức khỏe, gián đoạn kinh tế trong nước, nhu cầu bên ngoài giảm mạnh, đảo ngược dòng vốn và sự giảm mạnh của giá cả hàng hóa. Các tác động kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố tương tác theo những cách rất khó dự đoán".
Tương lai gần của phần lớn châu Á sẽ phụ thuộc vào sự phục hồi kinh tế của các đối tác thương mại quan trọng. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới mới nhất của IMF, phát hành hôm 14/4, dự báo tăng trưởng năm 2020 ở các nước châu Á nằm trong khoảng từ -6,7% đối với Thái Lan đến tăng trưởng +1,2% đối với Trung Quốc, +1,9% đối với Ấn Độ và +2,7% đối với Việt Nam. Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng cao nhất so với các nền kinh tế châu Á mới nổi.
Philippines và Indonesia cũng dự kiến sẽ duy trì trạng thái tích cực, tăng trưởng lần lượt +0,6% và +0,5%, trong khi Malaysia dự kiến sẽ là -1,7%.
"Trong một kịch bản cơ bản giả định rằng "đại dịch sẽ biến mất vào nửa cuối năm 2020" và các lệnh cách ly được nới lỏng dần, nền kinh tế toàn cầu được dự đoán sẽ phục hồi tăng trưởng 5,8% vào năm 2021 trong khi châu Á mới nổi và đang phát triển dự kiến sẽ tăng trở lại 8,5%", báo cáo nói.
"Nhìn chung, các dự báo kinh tế về tác động của COVID-19 có xu hướng khác nhau về mức độ nghiêm trọng và kéo dài của cú sốc, cũng như mô hình của sự phục hồi dự kiến", Rhee lưu ý.
Phụ thuộc nhiều vào các đối tác lớn
"Ngoài các dự báo, tình hình sẽ phụ thuộc phần lớn vào các đối tác thương mại quan trọng của châu Á và cách thương mại thế giới phục hồi trong bối cảnh lo ngại về chủ nghĩa bảo hộ gia tăng".
Vào năm 2020, IMF dự kiến sẽ có suy thoái ở các đối tác thương mại quan trọng của châu Á, bao gồm Mỹ -5,9% và khu vực đồng EUR -7,5%.
"Không giống như trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, các lĩnh vực thực sự quan trọng của châu Á, đặc biệt là dịch vụ, đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi các biện pháp giãn cách để ngăn chặn đại dịch", ông Rhee trao đổi với Nikkei Asian Review.
"Trong khi nền kinh tế Trung Quốc đang bắt đầu hoạt động trở lại, các nền kinh tế khác lại áp dụng các biện pháp khóa cửa chặt hơn, và một số đang trải qua đợt lây nhiễm virus thứ hai.
"Tóm lại, tác động của đại dịch đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ rất nghiêm trọng, xuyên suốt và chưa từng có".
Dự báo tăng trưởng 0% cho châu Á vào năm 2020 là một "sự hạ cấp đáng chú ý", ông Rhee lưu ý. "Châu Á chưa từng tăng trưởng bằng 0% trong suốt 60 năm qua." Ông chỉ ra rằng ngay cả trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, châu Á vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 4,7% và từng tăng trưởng 1,3% trong khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Dự đoán của IMF được đưa ra trước khi nhiều quốc gia đạt đến đỉnh điểm của đại dịch. Mặc dù chúng phù hợp với dự báo tăng trưởng toàn cầu của Ngân hàng Thế giới vào tuần trước, nhưng biến động cực đoan trên thị trường vốn toàn cầu và giá vàng tăng đột biến cho thấy các nhà đầu tư vẫn không chắc chắn về dự báo này.
"Hầu hết các dự đoán cho thấy toàn bộ châu Á sẽ kiên cường hơn châu Âu và Hoa Kỳ khi đối mặt với coronavirus", theo ông Rhee, "có thể là triển khai khóa sớm và nhanh chóng của nhiều nước châu Á. Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu lý thuyết rằng quần thể ở vùng khí hậu ấm hơn có thể kháng lại coronavirus nhiều hơn, cho thấy châu Á có thể không gặp phải tỷ lệ tử vong và nhiễm trùng cao ở châu Âu và Mỹ
Hơn nữa, vì châu Á đã tiếp xúc với virus trước các quốc gia khác, sự phục hồi có thể bắt đầu sớm hơn và tăng trưởng hàng năm vào năm 2021 dự kiến sẽ tăng lên tới 7,6%.
Giá dầu giảm sau thỏa thuận gần đây của các nhà sản xuất Opec và việc các đồng minh cắt giảm 10% sản lượng bắt đầu từ ngày 1/5 có khả năng mang lại lợi ích cho châu Á, ông Rhee lưu ý. "Dự báo của chúng tôi có trước thỏa thuận đó, nhưng chúng tôi hy vọng giá dầu sẽ vẫn ở mức thấp và ít biến động trong thời gian tới".
Nhìn chung, giá dầu thấp có xu hướng hỗ trợ tăng trưởng và bền vững bên ngoài ở châu Á, nơi nhiều quốc gia phụ thuộc nhiều vào dầu nhập khẩu, mặc dù sự phụ thuộc này thay đổi đáng kể từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Nhưng, ông Rhee cảnh cũng báo, "không phải tất cả những gì đã mất có thể phục hồi nhanh chóng và mức sản lượng có thể vẫn ở dưới mức trước đại dịch trong suốt năm 2021".
Ngoài ra, khả năng phục hồi của châu Á phụ thuộc phần lớn vào tình hình toàn cầu, ông lưu ý.
Thái Lan và một số quốc gia châu Á khác phụ thuộc nhiều vào du lịch. Úc phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa. Và nhiều quốc gia châu Á không chỉ phụ thuộc Trung Quốc mà còn cả châu Âu và Mỹ, nơi đã bị virus tấn công mạnh.
Ông Rhee cho biết ưu tiên ngắn hạn của châu Á là kiểm soát dịch bệnh và duy trì các hệ thống kinh tế để một khi các biện pháp ngăn chặn được dỡ bỏ, hoạt động kinh tế có thể nhanh chóng phục hồi.
Về mặt này, Malaysia đã có những biện pháp đúng đắn, ông đánh giá. "Họ đã đưa ra một Lệnh kiểm soát di chuyển để ngăn chặn sự lây lan của dịch, đồng thời phân bổ nhiều nguồn lực hơn cho ngành y tế. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ và tài chính đã hỗ trợ cho nhu cầu tổng hợp. Malaysia cũng hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua một bảo lãnh mới. quỹ, tăng các cơ sở cho vay của ngân hàng trung ương, và các biện pháp nhằm giảm bớt dòng tiền. "
Cho dù triển vọng chung của châu Á không ảm đạm như các khu vực khác, ông Rhee vẫn nhấn mạnh đến nhu cầu cấp bách về hỗ trợ tài chính, bao gồm tài chính khẩn cấp và giảm nợ cho các quốc gia đang phải vật lộn để chống lại suy thoái.
"Đại dịch này là một "lời nhắc nhở mạnh mẽ" về nhu cầu phối hợp chính sách và đoàn kết trong một thế giới kết nối", ông nói. "Mặc dù đã có hành động quyết đoán trên nhiều mặt trận, nhiều quốc gia vẫn cần mở rộng chính sách, điều mà họ chỉ có thể làm được với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế".