Khó khăn bủa vây doanh nghiệp
Trong báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về một số vấn đề rào cản, thách thức lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi và phát triển bền vững của doanh nghiệp (DN) và nền kinh tế các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023 của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho thấy, DN ở hầu hết các ngành hàng đều cho biết, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong nửa cuối Quý IV/2022 và đầu năm 2023 sẽ gặp rất nhiều khó khăn so với kết quả Quý III/2022. Bởi đơn hàng cho năm 2023 với nhiều ngành xuất khẩu chủ lực đều sụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt với các ngành dệt may, da giày, nội thất, nhôm công nghiệp, sắt thép, xi măng... Nhiều DN đã phải cắt giảm nhân công, giảm quy mô sản xuất trong các tháng cuối năm 2022.
Nguyên nhân của sự sụt giảm đơn hàng chủ yếu đến từ hai yếu tố: chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế tại nhiều quốc gia châu Âu, Mỹ cũng như toàn cầu khiến cầu tiêu dùng và đầu tư (đặc biệt là đầu tư lĩnh vực bất động sản trên toàn cầu) giảm mạnh; và xu hướng ngày càng gia tăng tần suất các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt từ phía Mỹ, khiến nhiều DN Việt Nam bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường.
Khó khăn bủa vây doanh nghiệp Việt. (Ảnh minh họa)
Ngoài ra, khó khăn về dòng tiền, bao gồm vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn đang đặt DN, đặc biệt DN tư nhân Việt Nam, vào những tình thế hết sức cấp bách, khó khăn; ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của nhiều ngành, lĩnh vực và nội tại nền kinh tế trong nước.
“Thách thức rất lớn về việc tiếp cận nguồn vốn khiến DN, đặc biệt các DN tư nhân Việt Nam, gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu mua và chuẩn bị nguyên vật liệu cho các kỳ sản xuất năm 2023 cũng như duy trì công ăn việc làm cho người lao động. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng do dòng tiền của các DN đã cạn kiệt sau hơn 2 năm dịch bệnh. Đặc biệt, DN ở một số ngành phản ánh các khó khăn chưa từng có trong hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn”, đại diện Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân nêu rõ.
Đơn cử như đối với DN ngành thép hiện đang đối diện với “khủng hoảng lớn” khi cung vượt mạnh cầu, trong khi đơn hàng xuất khẩu lẫn đơn hàng trong nước đồng loạt giảm mạnh. Nhiều DN phải bán sản phẩm thấp hơn giá vốn 30-40% để có dòng tiền hoạt động với chi phí lãi vay rất cao, trong lúc chờ đợt phân bổ chỉ tiêu tín dụng tiếp theo;
DN các ngành công nghiệp hỗ trợ trước đây có thể sử dụng hợp đồng đã ký kết hoặc thế chấp bất động sản để vay vốn nhưng hiện nay các ngân hàng không giải ngân do áp lực về room tín dụng nên doanh nghiệp cũng không thể tiếp nhận và ký kết hợp đồng mới.
DN nông nghiệp phản ánh về việc thiếu vốn để thu mua nguyên liệu trong khi một số nông sản (đặc biệt các loại hạt nguyên liệu) lại có kì thu mua tập trung ở các tháng cuối năm và đầu năm 2023. Thời gian thu mua gấp, lượng vốn cần lớn nhưng DN Việt Nam lại không thể tiếp cận tín dụng nên dự báo rất khó cạnh tranh được với các DN FDI.
Những khó khăn trên “khiến phần lớn DN Việt đối diện với tình thế chông chênh để duy trì một phần hoạt động, trước khi có thể tính tới việc phục hồi”, Ban IV nhìn nhận.
Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử VOV, ông Nguyễn Toàn Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Toàn Thắng (doanh nghiệp chuyên lắp ráp, xây dựng nhà xưởng công nghiệp) chia sẻ, sau dịch, công ty cũng dần phục hồi trở lại và muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển trong năm tới, nhưng thiếu vốn, tài sản thế chấp không có, trong khi điều kiện vay của ngân hàng quá ngặt nghèo nên doanh nghiệp không thể vay được khoản vay trung và dài hạn. Gói vay ông Thắng từng tìm hiểu mức lãi suất khá thấp nhưng cần có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, tài sản có thể thế chấp đã được doanh nghiệp sử dụng cho các khoản vay trước nên không đảm bảo điều kiện vay.
“Khi xem xét hồ sơ vay, ngân hàng yêu cầu phải có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, phải có năng lực quản trị, phương án dự phòng rủi ro, phải chứng minh nguồn thu, dòng tiền, đầu vào, đầu ra... Trong khi đó, DN tôi quy mô nhỏ, chỉ vài chục lao động, lại vừa bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch nên những yêu cầu của ngân hàng đưa ra, chúng tôi không đáp ứng được”, ông Thắng nói.
Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) cho biết, hiện tất cả các ngân hàng đều có những gói tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay, nhưng cũng nhiều doanh nghiệp chưa vay được do nhiều ngân hàng, tổ chức thực hiện cho vay vẫn còn khá dè dặt, chưa thực sự quyết liệt tạo điều kiện khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn khó tiếp cận vốn.
"Ngân hàng cần cởi bỏ sự cứng nhắc, nên linh hoạt trong khâu thẩm định hơn đối với các hình thức cho vay, chủ động hợp tác với doanh nghiệp để tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn một cách dễ dàng hơn", ông Tô Hoài Nam nêu ý kiến.
Đại diện VINASME đề nghị, Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần có một cơ chế trên cơ sở tình hình của doanh nghiệp nhỏ và vừa để giảm điều kiện cho vay xuống, khi ấy doanh nghiệp nhỏ và vừa mới tiếp cận được vốn.
“Các giải pháp nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp tiếp cận được chính sách tín dụng ưu đãi. Theo đó, cần rà soát quy trình, điều kiện, thủ tục vay theo hướng đơn giản hơn, tháo gỡ vướng mắc trong việc tiếp cận tín dụng từ các tổ chức tín dụng”, ông Nam đề xuất.
Đề xuất kéo dài một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Để khắc phục phần nào các khó khăn cho các DN xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt để giảm sự bị động về tín hiệu thị trường, Ban IV đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp với các bộ chuyên ngành cung cấp thường kỳ các thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp.
Để hỗ trợ nỗ lực phục hồi của DN, đặc biệt với các DN tư nhân trong nước trong bối cảnh DN đối diện với khó khăn rất lớn về dòng tiền, đề xuất Chính phủ xem xét kéo dài tới hết năm 2023 một số chính sách hỗ trợ DN đã phát huy hiệu quả thiết thực trong giai đoạn đại dịch COVID-19, như: chính sách giảm 2% thuế VAT, chính sách giãn/hoãn áp dụng biểu giá thuê đất mới theo Nghị định số 96/2019/NĐ-CP ngày 19/12/2019 của Chính phủ; các chính sách tín dụng như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ,...
Đối với thách thức liên quan thị trường tài chính, để gia tăng hiệu quả sử dụng hạn mức tín dụng năm 2023, giúp dòng vốn hỗ trợ được cho DN ở nhiều ngành, lĩnh vực, đề xuất Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước làm việc với các ngân hàng thương mại để nghiên cứu, thiết kế các gói tín dụng ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực sản xuất chủ lực trong nước, trong đó có những khoản mục dành cho DN nhỏ và vừa để không triệt tiêu năng lực DN.
Mặt khác, với chính sách siết tín dụng đối với bất động sản, cần thiết phải phân tách các loại bất động sản để các loại hình như xây dựng nhà ở xã hội, bệnh viện, trường học, các dự án xây dựng hạ tầng sản xuất,... không bị ảnh hưởng tiêu cực theo chính sách chung, từ đó tạo cơ hội cho nhiều nhóm DN liên quan./.