Ngày 20/8 vừa qua đã diễn ra Hội thảo trực tuyến về thực trạng và triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ, sự kiện do Đại học Fulbright Việt Nam phối hợp cùng Vụ Châu Mỹ (Bộ Ngoại giao) đồng tổ chức.
Trong phiên thảo luận đầu tiên, các chuyên gia trình bày, phân tích và nhận định về những vấn đề liên quan đến thặng dư thương mại và thao túng tiền tệ, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu và tương lai thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) của Việt Nam.
Từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được ký kết vào năm 2000, Hoa Kỳ luôn đóng vai trò là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy có kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng nhanh theo mỗi năm, Việt Nam lại không nằm trong top 10 các nước nhập khẩu nhiều từ Hoa Kỳ.
Ông Nguyễn Đình Lương, nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) phát biểu tại hội thảo.
ông Nguyễn Đình Lương, nguyên Trưởng đoàn đàm phán BTA, mở đầu cho phiên thảo luận. Bàn về một số đặc điểm và nguyên nhân khiến cho cán cân thương mại của Việt Nam nghiêng theo hướng "xuất nhiều, nhập ít", ông nhận định, điểm nổi bật nằm ở sự khác biệt về cơ cấu kinh tế và xuất nhập khẩu của hai nước.
Hoa Kỳ là nước xuất siêu về dịch vụ và nhập siêu về hàng hóa. Ngược lại, Việt Nam lại nhập về rất ít những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo từ phía Hoa Kỳ như dịch vụ, nông sản và trang thiết bị hiện đại.
Lý do vì sức mua của thị trường Việt còn khá khiêm tốn, chưa kể đến chiến lược đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các nước, cũng như biện pháp bảo hộ một số ngành nghề thiết yếu trong nước.
"Thị trường cần gì, nhiều ít bao nhiêu, chất lượng thế nào, mẫu mã ra sao, yêu cầu vệ sinh dịch tễ và xuất xứ hàng hóa gồm những gì, ta đều có thể sản xuất theo đó", ông Nguyễn Đình Lương nhận định.
GS. David Dapice, chuyên gia hàng đầu về kinh tế Đông Nam Á tại Trường Quản lý Nhà nước John F Kennedy, Đại học Harvard
Cùng quan điểm với ông Nguyễn Đình Lương về mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ, Giáo sư David Dapice – chuyên gia hàng đầu về kinh tế Đông Nam Á tại Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy, Đại học Harvard cho rằng: "Không có một từ nào khác ngoài ‘ngoạn mục’ để mô tả những bước tiến đạt được trong quan hệ kinh tế hai nước".
Giải thích cho những con số tăng trưởng về xuất khẩu đáng kinh ngạc trong vài năm trở lại đây, ông cho rằng căng thẳng thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc đã buộc các doanh nghiệp Hoa Kỳ phải chuyển đổi tư duy từ ‘Trung Quốc cộng một’ (‘China plus One’) sang ‘ABC’ (‘Anywhere but China’, tức ‘bất kỳ đâu ngoài Trung Quốc’).
Theo đó, Việt Nam thường là điểm đến mà các doanh nghiệp này lựa chọn nhờ tận dụng tốt và triệt để những lợi thế sẵn có như môi trường kinh doanh và đầu tư thân thiện; lực lượng nhân công trẻ, dồi dào và ham học hỏi; cùng với đó là nỗ lực cải thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng, và việc ký kết các hiệp định thương mại quan trọng trên trường quốc tế.
Nói về lĩnh vực tiềm năng mà Việt Nam và Hoa Kỳ có thể và nên tăng cường hợp tác, Giáo sư David Dapice nhận định, đó là y tế, đặc biệt là sản xuất vaccine.
"Sự hỗ trợ của Hoa Kỳ không chỉ quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang ứng phó đẩy lùi dịch bệnh hiện tại, mà còn đóng vai trò không nhỏ trong khả năng đương đầu của Việt Nam với các tình huống tương tự trong tương lai và trên thế giới, vốn được các chuyên gia dự đoán gần như chắc chắn sẽ diễn ra", ông chia sẻ.
Tiến sĩ Võ Trí Thành – nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương.
An ninh mạng, an ninh năng lượng và phát triển kinh tế bền vững lại là những lĩnh vực mà giáo sư David Dapice nhận định, Hoa Kỳ với kinh nghiệm và nguồn lực dồi dào có thể hỗ trợ Việt Nam. Ngoài ra, giáo dục cũng là lĩnh vực mà hai vị chuyên gia cho rằng Hoa Kỳ có thể hỗ trợ và đầu tư nhiều hơn nữa vào Việt Nam.
Ông Nguyễn Đình Lương đã nhấn mạnh rằng quan hệ giữa hai nước đã và đang phát triển tốt đẹp, bởi "thương mại là trụ cột": "Khi ta buôn bán càng nhiều, đi lại và gặp nhau càng nhiều, thì hai bên sẽ hiểu nhau hơn, giúp niềm tin đôi bên được củng cố. Từ đó, các quan hệ khác sẽ ngày một phát triển".
Các chuyên gia cho rằng tuy còn nhiều thách thức về phục hồi kinh tế sau đại dịch, nhưng đây vẫn là cơ hội lớn để Việt Nam tạo bước ngoặt trong cải cách toàn diện và phát triển kinh tế theo hướng bền vững và bao trùm, dựa trên năng suất và sáng tạo công nghệ.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 24-26/8 vừa qua. Ảnh: Reuters
Tiềm năng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam còn rất lớn, và đòi hỏi những chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa từ Việt Nam để trở thành điểm đến hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư chất lượng cao.