Trung Quốc là thị trường tiêu thụ nông, thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản mỗi năm. Riêng trong năm 2019, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 41,41 tỷ USD. Trong đó, những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn là thuỷ sản (1,23 tỷ USD), nông sản (2,429 tỷ USD), hạt điều (590 triệu USD), cà phê (101 triệu USD)…
Nhưng nay, do sự bùng phát của virus corona, nhu cầu tiêu thụ một số hàng nông sản tại Trung Quốc đã chững lại.
Mới đây, Ủy ban hiệp điều mậu dịch kinh tế đối ngoại thị Bằng Tường (Trung Quốc) thông báo về việc đóng cửa giao dịch mua bán tại các cặp chợ thuộc địa bàn thị Bằng Tường từ ngày 31/1/2020 đến hết ngày 8/2/2020, và sẽ mở cửa vào ngày 9/2/2020 (trừ cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị Quan mở cửa vào ngày 3/2/2020), với lý do đảm bảo công tác phòng chống dịch cúm do virus corona.
Hơn thế, việc vận chuyển giao nhận hàng hóa giữa các tỉnh, thành của Trung Quốc cũng hết sức khó khăn do việc thắt chặt kiểm soát nhằm thực hiện công tác chống dịch. Điều này dẫn tới việc, hàng nghìn tấn nông sản của Việt Nam ùn ứ tại cửa khẩu chờ thông quan.
Mở cửa khẩu thông thương: Chưa đủ?
Bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Bagico
Tại tọa đàm trực tuyến “Virus Corona tác động thế nào tới kinh tế Việt Nam?” do Báo Nông thôn Ngày nay/Dân Việt tổ chức, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Bagico, cho biết hai thị trường chính của Trung Quốc hiện là thị trường truyền thống (chợ dân sinh) và thị trường siêu thị, thương mại điện tử. Trong đó, thị trường truyền thống là phân khúc bị ảnh hưởng nặng nề hơn cả vì dịch virus Corona.
Đối với hàng hoa quả nói riêng và nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nói chung, truyền thống của Việt Nam là xuất tươi và xuất bằng đường bộ sang các chợ truyền thống, chợ buôn của Trung Quốc. Do đó, việc cửa khẩu Việt - Trung tạm ngừng trệ trong một số ngày qua do tâm dịch virus Corona chắc chắn ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu nông sản Việt. Trên thực tế, nhiều xe hàng nông sản Việt hiện bị ngừng trệ ở cửa khẩu, thậm chí phải quay đầu do các bãi cửa khẩu không đủ năng lực cung cấp điện để bảo quản hàng hóa.
Ngoài ra, do phần lớn nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời điểm hiện tại là 3 loại trái cây dưa hấu, thanh long và mít. Các loại trái cây này khi xuất sang thị trường Trung Quốc chủ yếu tập trung tại chợ buôn Giang Nam, Quảng Châu. Theo dự kiến, chợ truyền thống này sẽ đóng cửa đến hết ngày 9/2 trong nỗ lực kiểm dịch.
“Ngay cả khi cửa khẩu mở cửa thông thương, nếu chợ Giang Nam không hoạt động trở lại thì tình trạng ùn ứ vẫn chưa giải quyết được. Bởi vì phần lớn nông sản như Thanh long đang đứng ở biên giới hiện nay là của chủ hàng bán tại chợ Giang Nam. Nếu chợ này không mở cửa thì chúng ta cũng chỉ chuyển từ hình thức chạy từ bên này biên giới sang bên kia biên giới để đậu. Do đó, không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu, chính những người nông dân và thương lái cũng đang từng phút chờ thông tin liệu chợ Giang Nam có mở cửa vào ngày 10/2 sắp tới hay không”, bà Thực thông tin thêm.
Không xảy ra dịch, nông sản vẫn “vướng” tại cửa khẩu
Nói thêm về vấn đề xuất khẩu của nông sản Việt Nam, bà Thực cho rằng, không phải đến lúc có dịch bệnh chúng ta mới gặp khó khăn về xuất khẩu. “Nếu như đợt này không xảy ra dịch thì cũng có thể 1 -2 tháng tới chúng ta vẫn vướng ách những vấn đề về ách tắc nông sản tại cửa khẩu”, vị này nêu quan điểm.
Theo lý giải của vị này, một trong những vấn đề của xuất khẩu nông sản đó là quy định về truy xuất nguồn gốc. Trên thực tế, những quy định về truy xuất nguồn gốc đã được Trung Quốc thông báo từ 2 năm trước nhưng đến nay chúng ta vẫn giẫm chân tại chỗ trong việc thực hiện các quy định này. Những quy định cụ thể nào về mã vùng, mã xưởng hay tem truy xuất nguồn gốc cần gì thì chưa có. Theo bà Thực, đây chính là vấn đề của chính sách.
Chưa kể, bản thân luật trồng trọt của Việt Nam có điều 64 về quản lý vấn đề truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn của Bộ NN&PTNT cũng như UBND các cấp chưa có. Vì vậy, chính sách cần phải làm kịp thời, làm nhanh hơn để hỗ trợ cho xuất khẩu nông nghiệp.
Bà Thực nói thêm, nhiều quốc gia trên thế giới mong muốn được bán hàng cho Trung Quốc đặc biệt là nông sản. Vì vậy, chúng ta đừng nghĩ rằng “bài xích” Trung Quốc mà phải làm sao có thể chiếm được thị trường lớn này và có đủ năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác. Hiện nay, thương mại điện tử của họ đã phát triển nhưng mặt hàng của chúng ta vẫn còn kém về chất lượng, mẫu mã nên nông sản Việt sẽ còn gặp khó khăn hơn trong xuất khẩu nông sản vào thị trường này.
“Nếu làm tốt chúng ta sẽ không còn tình trạng giải cứu ở biên giới nữa. Sang Trung Quốc thì thấy hàng hóa được “gắn” thương hiệu của Việt quá ít. Nếu chúng ta không có chỗ đứng trên thị trường thì sẽ xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào người “đến nhà chúng ta mua mang đi”, Chủ tịch Bagico nói.
Cùng góc nhìn này, theo TS. Đặng Kim Sơn, về dài hạn chúng ta phải làm căn cơ hơn dài như đa dạng hóa thị trường, xây dựng chuỗi giá trị từ nơi sản xuất đến tiêu thụ cuối cùng, chuyển sản xuất manh mún sang quy mô lớn… tất cả đều là những vấn đề đã được nhắc đến rất nhiều mà chưa làm được.