Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã trải qua 20 năm, kể từ ngày chính thức đi vào hoạt động. Mặc dù có những bước thăng trầm nhưng đến nay, TTCK Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn ổn định và phát triển. Để xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam như ngày hôm nay, một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà cơ quan quản lý xác định là xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho TTCK, tạo cơ sở để vận hành và phát triển thị trường.
Khác với nhiều nước trên thế giới, khi TTCK được hình thành và đi vào hoạt động một thời gian thì sau đó cơ quan quản lý thị trường mới xây dựng khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động trên thị trường. Ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước được thành lập và xây dựng cơ chế chính sách cho TTCK trước khi thị trường chính thức đi vào hoạt động.
Trong thời gian đầu, khung pháp lý cho TTCK Việt Nam được xây dựng chỉ trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước và kết hợp với hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam, bởi lẽ chúng ta chưa có thực tiễn hoạt động của lĩnh vực này. Ngày 11/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK, đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng khung khổ pháp lý cho TTCK. Trên cơ sở đó, UBCKNN đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành (thời kỳ này, UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ). Các văn bản pháp lý này đã bước đầu tạo khung khổ pháp lý cho việc khai trương và đi vào vận hành TTCK ở Việt Nam từ tháng 7/2000 với sự ra đời của Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2003, sau một thời gian thị trường đi vào hoạt động, cơ quan quản lý nhận thấy Nghị định số 48/1998/NĐ-CP bộc lộ nhiều hạn chế do được xây dựng khi chưa có thực tiễn hoạt động của TTCK. Những bất cập trong khung khổ pháp lý cùng với một số nguyên nhân khác là những rào cản khiến TTCK non trẻ của Việt Nam không có nhiều chuyển biến mang tính bứt phá, khó phát triển được. Trên cơ sở kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn quản lý hoạt động của thị trường, ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2003/NĐ-CP thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP. Nghị định số 144/2003/NĐ-CP cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung pháp lý tương đối đồng bộ về các hoạt động trên thị trường như phát hành, niêm yết, kinh doanh, giao dịch, công bố thông tin, xử lý vi phạm...
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thị trường đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK, đồng thời để tạo được lòng tin cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được dòng vốn tạo đà phát triển cho thị trường, khắc phục mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật có liên quan, thì vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật Chứng khoán. Luật Chứng khoán tạo cơ sở pháp lý hiệu lực cao để điều chỉnh các hoạt động về chứng khoán và TTCK, giúp TTCK tiếp tục phát triển ổn định, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chứng khoán, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư trên TTCK.
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế và trên cơ sở thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, Luật Chứng khoán đã được xây dựng và được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành 01/7/2007. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong quá trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK, kể từ khi TTCK đi vào hoạt động. Luật Chứng khoán năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng, bảo đảm TTCK hoạt động công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả, giúp TTCK phát huy vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Sau hơn 4 năm thực hiện, TTCK đã có những phát triển đáng ghi nhận, TTCK đã góp phần thúc đẩy, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp đã huy động vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh; nhờ có TTCK, quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thuận lợi và ngày càng công khai minh bạch. Luật Chứng khoán năm 2006 bước đầu tạo lập môi trường pháp lý ổn định cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, thành viên thị trường tham gia đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Mặc dù đạt được những kết quả đáng kể, nhưng do TTCK Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hình thành và phát triển, có nhiều yếu tố mới phát sinh chưa được Luật Chứng khoán điều chỉnh như phát hành chứng khoán riêng lẻ, phát triển một số loại chứng khoán mới...Bên cạnh đó, quá trình triển khai thực hiện Luật đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, chưa thực sự phù hợp với thực tế cần sửa đổi, bổ sung như quy định về công bố thông tin, nghiệp vụ của tổ chức kinh doanh chứng khoán, hành vi vi phạm và xử lý vi phạm...Để khắc phục những hạn chế này, đồng thời dần đưa TTCK Việt Nam hội nhập sâu rộng với các nước, ngày 24/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2011.
Trên cơ sở Luật Chứng khoán năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn thực hiện. Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập khung khổ pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ điều chỉnh toàn diện hoạt động chứng khoán và TTCK. TTCK ngày càng trở thành kênh thu hút vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế; giảm khoảng cách chênh lệch giữa kênh tín dụng ngân hàng với kênh thị trường vốn, nhằm tăng cường vốn đầu tư xã hội.
Nếu như năm 2006, TTCK chỉ có khoảng 200 công ty niêm yết với giá trị vốn hóa khoảng 221.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 22,7% GDP năm 2006), thì đến cuối năm 2019 đã có 1.662 công ty niêm yết và đăng ký giao dịch với giá trị vốn hóa thị trường đạt khoảng 4.384 nghìn tỷ đồng (tương đương 72,6% GDP năm 2019). Giá trị huy động vốn của doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp năm 2019 đạt đạt 102,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với cả năm 2018. Giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD (tương đương 847.033 tỷ đồng). TTCK đã hỗ trợ cho việc thực hiện công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được thuận lợi hơn và ngày càng công khai, minh bạch, góp phần thực hiện chủ trương tái cơ cấu lại DNNN. Các khu vực thị trường đã được hình thành, bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và TTCK phái sinh. Tính thanh khoản thị trường được cải thiện rõ rệt qua những năm gần đây. Hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán đã có sự phát triển cả về năng lực chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tài chính; cải thiện chất lượng dịch vụ, tăng cường kiểm tra, kiểm soát tính tuân thủ của khách hàng và quản trị rủi ro trong quá trình hoạt động. Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư có tổ chức, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư cá nhân liên tục tăng. Đến nay, số lượng tài khoản nhà đầu tư trong và ngoài nước tăng hơn 20 lần so với năm 2006. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nói trên, hoạt động của TTCK Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, bất cập như: chất lượng các công ty niêm yết, chất lượng các công ty chứng khoán còn thấp, tham gia TTCK chủ yếu vẫn là nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư có tổ chức (các quỹ đầu tư) còn chưa nhiều; việc thực hiện công bố thông tin, quản trị công ty theo thông lệ tốt qua 10 năm thực thi Luật đã có sự tiến bộ đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một TTCK phát triển. Trong thời gian qua, các SGDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đã có nhiều cải tiến trong phương thức hoạt động, tuy nhiên với quy mô thị trường ngày càng lớn, số lượng công ty niêm yết, các nhà đầu tư ngày càng nhiều thì việc hoàn thiện hệ thống tổ chức thị trường giao dịch, đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán là cần thiết, tạo khả năng liên thông với các TTCK trong khu vực và quốc tế để thu hút vốn đầu tư trong nước, nước ngoài.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tồn tại, hạn chế nói trên là khung khổ pháp lý về chứng khoán và TTCK chưa hoàn thiện. Nội dung một số điều khoản của Luật còn chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến cách hiểu khác nhau và gây khó khăn trong áp dụng; một số điều khoản của Luật không còn hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; Luật chưa quy định một số vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi cần phải thể chế hóa bằng Luật; một số điều khoản chưa tương thích với thông lệ quốc tế tốt, chưa phù hợp với yêu cầu và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể như quy định về chào bán chứng khoán; công ty đại chúng; tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán; các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn TTCK; tổ chức kinh doanh chứng khoán; thẩm quyền của UBCKNN trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm...
Bên cạnh đó, một số quy định của Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã không còn thống nhất, đồng bộ với quy định liên quan tại các văn bản quy phạm pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo...Trước những sửa đổi của các Luật, Bộ luật nêu trên, Luật Chứng khoán còn thiếu những quy định mang tính đặc thù áp dụng cho lĩnh vực chứng khoán, để bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK.
Nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó có vấn đề tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu các DNNN, việc sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán là cần thiết.
Ngày 26/11/2019, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, thay thế Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. Luật gồm 10 chương, 135 điều với những sửa đổi, bổ sung mang tính toàn diện, cơ bản.
Nhìn chung, Luật Chứng khoán năm 2019 đã được sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ của quốc tế, tạo cơ sở, nền tảng pháp lý cho giai đoạn phát triển mới của TTCK. Sau khi có hiệu lực, Luật Chứng khoán năm 2019 sẽ góp phần cải thiện chất lượng hàng hóa, chất lượng các doanh nghiệp trên TTCK, thu hút vốn đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước trên TTCK, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường, tăng tính công khai, minh bạch, bảo đảm TTCK hoạt động bền vững, an toàn, chuyên nghiệp, hiện đại.
Không chỉ vậy, Luật Chứng khoán năm 2019 còn tạo cơ sở để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tăng niềm tin của thị trường. Qua đó, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK, tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, góp phần nâng tầm TTCK Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong tình hình mới.