Làm cầm chừng để giữ chân thợ
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST), cả nước hiện có trên 300 làng nghề gỗ với hàng chục nghìn hộ gia đình và hàng trăm nghìn lao động tham gia sản xuất, kinh doanh gỗ. Các biện pháp giãn cách nhằm kiểm soát dịch Covid-19 trong thời gian gần đây có tác động rất lớn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ làng nghề.
Khảo sát của Nhóm nghiên cứu của VIROEST và Tổ chức Forest Trends cho thấy, tại 6 làng nghề gỗ vùng Đồng bằng sông Hồng (Đồng Kỵ, Hữu Bằng, La Xuyên, Liên Hà, Thụy Lân và Vạn Điểm), năng lực sản xuất của các hộ đã giảm 62%. Phần 38% còn lại là phần mới được phục hồi sau khi các địa phương nới lỏng giãn cách trong một vài tuần trở lại đây.
Trong số 6 làng nghề khảo sát công suất nơi cao nhất hiện đạt 50% (Thụy Lân) và nơi thấp nhất chỉ đạt 30% (Đồng Kỵ, Hữu Bằng).
Khoảng 46% số hộ tại các làng đã quay trở lại sản xuất, tuy nhiên các hoạt động này chỉ mang tính chất “cầm chừng” với mục đích “làm để giữ thợ” và “lấy công làm lãi” mà không có lợi nhuận. Làng có số hộ quay lại sản xuất cao nhất đạt 80% (La Xuyên) và làng thấp nhất chỉ đạt 30% (Đồng Kỵ)
TS. Tô Xuân Phúc, chuyên gia của Tổ chức Forest Trend, cho biết, lực lượng lao động tại các làng nghề suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là nhóm lao động tự do từ các nơi khác tới làm thuê cho các hộ tại đây. So với trước giãn cách, lượng lao động làm thuê tại các làng nghề giảm 73%, lao động của bản thân hộ giảm 36%. Các hộ sản xuất phải giảm lượng lao động đi thuê nhằm giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, các biện pháp giãn cách làm đứt nguồn cung lao động do công nhân ở địa bàn khác không thể di chuyển tới làng nghề.
Đầu ra sản phẩm của các hộ giảm khoảng 76%, thu nhập của hộ giảm gần 90%, nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất giảm 68% do không tiêu thụ được sản phẩm đầu ra. Ở một số nơi như Đồng Kỵ, Liên Hà, La Xuyên lượng sản phẩm bán ra giảm 80-90%, tương ứng với mức sụt giảm về nguồn thu của hộ.
Chi phí nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất tăng. Giãn cách làm cước vận chuyển và giá phụ liệu tăng bình quân khoảng 20-25%, trong khi chi phí gỗ nguyên liệu đầu vào tăng khoảng 5-10%.
Phải tìm đến “tín dụng đen”
Trên 70% số hộ ở các làng nghề gỗ vay vốn để sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất đình trệ, nguồn thu bị mất hoặc sụt giảm tạo ra sức ép về các khoản vay rất lớn cho các hộ. Trước sức ép trả lãi suất ngân hàng và để tránh rơi vào danh sách hộ nợ xấu, một số hộ phải đi vay “tín dụng đen” với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng để trả lãi và các khoản vay đến hạn phải trả, trước khi có được các khoản vay mới từ ngân hàng. Điều này tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với hộ.
Ông Đỗ Xuân Lập – Chủ tịch Viforest cho rằng, đại dich Covid-19 đã gây ra những tác động tiêu cực rất lớn cho ngành gỗ. Thời gian qua, VIFOREST và các Hiệp hội địa phương ngành gỗ liên tục kết nối với các cơ quan quản lý nhằm cập nhật tình hình và đề xuất các kiến nghị, giúp các doanh nghiệp trong ngành giảm tác động của đại dịch.
Để phát triển các làng nghề gỗ bền vững, ông Đỗ Xuân Lập cho rằng, cần kết nối các doanh nghiệp xuất khẩu với các làng nghề để các làng nghề không chỉ sản xuất sản phẩm trong nước mà còn xuất khẩu. Tại khu vực miền Nam, nhiều làng nghề đã phối hợp với doanh nghiệp để tham gia vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu và đây là cơ hội cho các làng nghề.
Theo ông Vũ Quốc Vương, Chủ tịch Hiệp hội gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), hiện giai đoạn khó khăn đã tạm qua. Việc sản xuất, kinh doanh của các hộ dân tại làng nghề gỗ Đồng Kỵ đang trở lại giai đoạn bình thường mới, tuy nhiên, việc thiếu hụt nhân lực cũng như đứt gãy chuỗi cung cầu nên các hộ trong làng nghề gặp rất nhiều khó khăn.
Sau đại dịch, việc tìm hiểu, kết nối thị trường đầu ra cũng như thị trường nguyên liệu đầu vào sẽ phải kết nối lại. Đây là một việc làm khó nên sẽ hạn chế rất nhiều các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới của các cơ sở sản xuất đồ gỗ tại địa phương, ông Vương lưu ý.
Trong bối cảnh khó khăn hiện tại, các làng nghề tập trung kiến nghị tháo gỡ các vấn đề liên quan đến các khoản vốn vay, thuê đất và phát triển đầu ra sản phẩm, chuyển hướng kinh doanh. Do không có nguồn thu, hộ không có khả năng trả các khoản vay đúng kỳ hạn. Các hộ kiến nghị các ngân hàng cho phép các hộ đáo hạn đối với các khoản vay đã đến kỳ hạn trả nợ. Biện pháp đáo hạn này không những giúp hộ giảm sức ép về vốn vay mà còn tránh được các rủi ro trong việc tiếp cận với nguồn “tín dụng đen” với lãi suất cao và rủi ro rất lớn đối với hộ./.