Tại hội thảo về việc sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước và dự kiến sửa Luật Doanh nghiệp chiều 15/7, ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho biết, Nghị quyết số 12-NQ/TW quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối.
Thống kê có 526 doanh nghiệp do nhà nước nắm 100% vốn, bên cạnh đó có 294 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước do Bộ, UBND tỉnh thành quản lý.
Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê cho hay đến ngày 1/1/2018, cả nước có 1.204 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc mọi cấp độ quản lý; 1.282 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước lớn hơn 50% thuộc mọi cấp quản lý (bao gồm cả công ty con của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước).
Như vậy, trong trường hợp mở rộng tối đa khái niệm doanh nghiệp nhà nước thì có thêm 1.282 công ty cổ phần được gọi là doanh nghiệp nhà nước và trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.
Hiện có 9 luật quy định về chủ thể doanh nghiệp nhà nước gồm: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Quản lý tài sản công, Luật Tiếp cận thông tin, Bộ luật Dân sự, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp, Luật Kiểm toán Nhà nước. Trong đó, các luật gây tác động trực tiếp nếu một doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp nhà nước gồm: Luật Đấu thầu (toàn bộ các dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, từ mọi nguồn vốn, phải thực hiện theo luật); Luật Xây dựng (Điều 60 và Điều 63), Luật Ngân sách nhà nước.
Báo cáo của CIEM cho hay hiện có 4 phương án quy định khái niệm doanh nghiệp nhà nước tại Luật Doanh nghiệp gồm: Phương án trên 65% vốn điều lệ: mức độ chi phối là tuyệt đối, nhà nước quyết định tất cả các vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp.
Phương án trên 50% vốn điều lệ: mức độ chi phối chủ động cộng với quyết định phần lớn các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp (gồm nhân sự, điều lệ).
Phương án trên 35% vốn điều lệ: mức độ chi phối là thụ động/thực hiện quyền phủ quyết để định hướng doanh nghiệp.
Phương án cuối là chỉ cần có vốn nhà nước, nhà nước có quyền trực tiếp/gián tiếp bổ nhiệm các thành viên hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, quyết định điều lệ doanh nghiệp: mức độ chi phối là quyết định những vấn đề lớn của doanh nghiệp không phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu.
CIEM cho rằng việc quyết định chọn lựa phương án nào cần tính tới một số yếu tố. Chẳng hạn như tâm lý của nhà đầu tư, không nên để có tình trạng nhà đầu tư tư nhân giữ đa số cổ phiếu nhưng vẫn bị nhà nước kiểm soát. Điều này tiềm ẩn khó khăn, vướng mắc trong quản trị doanh nghiệp;
Hay như nhà nước cần xem xét tác động đến tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. "Phải thận trọng, nếu không sẽ có một số rất lớn doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước lại trở thành doanh nghiệp nhà nước", báo cáo CIEM nhấn mạnh.
Do đó, Viện này cho rằng phương án trên 50% vốn điều lệ dường như hợp lý hơn các phương án khác.
Phó viện trưởng Ciem Phan Đức Hiếu cho rằng, một quy định về doanh nghiệp nhà nước thay đổi thì phải đánh giá thay đổi tích cực hay tiêu cực đến đâu. Sửa đổi Luật Doanh nghiệp nếu có tác động tích cực thì vui, còn nếu tiêu cực thì phải có biện pháp hạn chế tiêu cực. Làm rõ tác động liên quan đến các vấn đề như nhân sự, đầu tư, kế hoạch sản xuất kinh doanh…
Đồng quan điểm với phương án của CIEM, một số chuyên gia cho rằng sau 30 năm cải cách, doanh nghiệp nhà nước đã giảm xuống hiện còn trên 500. Nếu mở rộng thì số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng lên đột biến. Thành quả của cải cách có thể bị ảnh hưởng về mặt con số.
Trong khi đó, nếu mở rộng tối đa khái niệm doanh nghiệp nhà nước trên 35% vốn thì phải quan tâm đến phản ứng của nhà đầu tư, có thể không tích cực. Nhiều nhà đầu tư hiện đã nắm trên 50% vốn doanh nghiệp nhà nước rồi mà Nhà nước có quyền quyết định thì ảnh hưởng tâm lý. "Nếu tôi nắm giữ như vậy mà bị nhà nước quyết thì có thể bán tháo cổ phiếu. Cần cân nhắc", vị này nói.