Công ty Chứng khoán MB (MBS) vừa có báo cáo cập nhật về ngành ngân hàng trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động đến kinh tế. Báo cáo đề cập dù có đòn bẩy tương đối cao, tiềm năng tăng tài sản của ngành ngân hàng Việt Nam vẫn được củng cố bởi tăng trưởng kinh tế vững chắc, sự bùng nổ của tầng lớp trung lưu và nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển bất động sản.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã tăng từ mức 99% năm 2009 lên 135% tới cuối tháng 4/2020. Tăng trưởng tín dụng chậm lại vào đầu năm 2020 do tác động của dịch Covid-19. Tuy nhiên, MBS nhận định đà tăng có thể phục hồi vào cuối năm 2020 và 2021 nhờ nhu cầu triển khai đầu tư hạ tầng.
Tầm quan trọng và vị thế của các ngân hàng Việt Nam so với các nước khác ở châu Á vẫn còn khiêm tốn với tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP, thấp hơn nhiều so với Nhật Bản (169%), Trung Quốc (161%), Hàn Quốc (163%) và Thái Lan (144%).
MBS kỳ vọng tổng dư nợ tín dụng quốc gia trong dài hạn sẽ tăng nhờ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và định hướng thúc đẩy dư nợ tín dụng/GDP sẽ tiếp tục tăng.
MBS cho rằng ngành ngân hàng ít chịu thiệt hại hơn các ngành khác, một phần nhờ hệ thống ngân hàng hiện nay đã khỏe mạnh hơn nhiều so với năm 2008. Ảnh: L.H.
Sự bùng nổ đại dịch đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống hiện nay đã kiên cường hơn trong việc chống chọi với cơn hoảng loạn so với trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008. CTCK này cho rằng diễn biến giá dầu và ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực đến dư nợ cho vay của các ngân hàng Việt Nam do nhiều ngành nghề như sản phẩm xuất khẩu sản xuất như hàng may mặc, giày dép, thủy sản, dầu khí, bất động sản và xây dựng, hàng không chịu ảnh hưởng.
Các khoản vay cá nhân, lĩnh vực chịu ảnh hưởng gián tiếp thông qua thất nghiệp gia tăng, chiếm 42% danh mục của ngân hàng. Dù phân khúc bán lẻ rủi ro hơn doanh nghiệp, MBS cho rằng thiệt hại sẽ được giảm nhẹ một phần nhờ xu hướng tiết kiệm tiền mặt của công dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam cũng xây dựng bảng cân đối kế toán tốt hơn và ổn định hơn. Tỷ lệ cho vay tiền gửi (LDR) đã giảm từ hơn 100% trong giai đoạn 2009-2012 (đạt đỉnh ở mức 116% trong năm 2011) về mức 93% đến cuối tháng 2.
NHNN đã tích lũy một khoản lớn dự trữ quốc tế như một bộ đệm tốt để bảo vệ tỷ giá hối đoái và lạm phát trong các kịch bản tiêu cực.
Sự vững chắc của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng được thể hiện qua các khoản đầu tư chiến lược từ các đối tác nước ngoài. Từ năm 2012, các ngân hàng Việt Nam đã nhận đầu tư khoảng 3,2 tỷ USD, riêng 3 ngân hàng quốc doanh đã hút 2,4 tỷ USD.
MBS nhận định đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến ngành ngân hàng Việt Nam ở mức độ nhất định, khiến chi phí dự phòng tăng mạnh trong quý I và quý II/2020, đặc biệt là đối với các ngân hàng tập trung cho vay nhiều ở lĩnh vực du lịch, hàng không và gia công. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ ít thiệt hại hơn các ngành khác. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng đã tốt hơn nhiều so với năm 2008, có khả năng vượt qua cuộc khủng hoảng này.