Theo lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam theo quyết định của thủ tướng chính phủ số 1191/QĐ-TTg, mục tiêu quy mô thị trường trái phiếu sẽ đạt 45% GDP năm 2020 và 65% GDP năm 2030, trong đó, dư nợ của thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đạt 7% GDP năm 2020 và 20% vào năm 2030.
Theo ngân hàng phát triển châu Á ADB, trong 4 năm trở lại đây, quy mô thị trường TPDN của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ 261%, dư nợ toàn thị trường đến hết Q1/2019 là 4,34 tỷ USD, tương đương với 1,8% GDP, tuy nhiên, vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với trung bình các nước ASEAN (15,7%), Trung Quốc (29,5%), Hàn Quốc (74,3%), Malaysia (46,3%), Thái Lan (21,2%).
Báo cáo mới đây của chứng khoán MBS cho biết, từ đầu năm đến nay, có trên 60 nghìn tỷ đồng TPDN được phát hành, trong đó nhóm ngành tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản chiếm tỷ trọng đến 82%.
Cụ thể, nhóm ngành ngân hàng đã phát hành 17,6 nghìn tỷ đồng, trong đó VPBank phát hành 5.600 tỷ, chiếm đến 32%, trái phiếu VPBank có kỳ hạn 3 năm, lãi suất cố định từ 6,4% - 6,9%.
Nhóm ngành bất động sản, xây dựng, hạ tầng đứng thứ hai về lượng trái phiếu phát hành với 16,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 27%. Đây là nhóm ngành có mức lãi suất coupon cao nhất, phổ biến trên 10%/năm, cao nhất là trái phiếu của Phát Đạt với mức lãi suất coupon lên đến 14,5%/năm. TPDN của các doanh nghiệp BĐS, xây dựng thường có tài sản đảm bảo dưới dạng quyền sử dụng đất, có kỳ hạn từ 1 năm đến 10 năm (CII), phổ biến là kỳ hạn 2 năm.
Các doanh nghiệp chứng khoán cũng huy động 15,8 nghìn tỷ thông qua hình thức phát hành trái phiếu 05 tháng đầu năm, với lãi suất coupon từ 8% - 11,3%, kỳ hạn phổ biến từ 1 – 3 năm. Vndirect dẫn đầu với 1.460 tỷ đồng trái phiếu phát hành, kỳ hạn từ 1-3 năm, lãi suất 9,5% - 11,3%/năm, trong đó 660 tỷ đồng là trái phiếu chuyển đổi.
Theo MBS, hiện tại TPDN chủ yếu phát hành riêng lẻ cho các nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp (CTCK) trên thị trường OTC dưới dạng ghi sổ, số lượng TPDN phát hành bởi các DNNN và doanh nghiệp tư nhân niêm yết trên sàn HOSE vẫn khá hạn chế, chỉ có một vài doanh nghiệp lớn như HCM, ANC, BID, CII, KBC, NVL, VIC và MSN… HNX đang triển khai xây dựng chuyên trang về TPDN để cung cấp các thông tin chi tiết về doanh nghiệp phát hành trái phiếu, giá phát hành, lãi suất coupon, lượng phát hành… tạo điều kiện cho thị trường thứ cấp TPDN phát triển.
Đáng lưu ý, luật hiện hành chưa yêu cầu TPDN phát hành tại Việt Nam phải được xếp hạng tín nhiệm do trong nước chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm nào. Tuy nhiên, lộ trình phát triển thị trường trái phiếu năm 2017 đưa ra mục tiêu tất cả chứng khoán nợ phát hành trong nước sẽ được xếp hạng bởi 02 tổ chức xếp hạng tín nhiệm.
Nhóm phân tích của MBS cho rằng, Chính phủ cần nhanh chóng phát triển các quy định về tổ chức xếp hạng tín nhiệm cho TPDN để tạo khung pháp lý cho thị trường thứ cấp được phát triển, bảo vệ nhà đầu tư. Đồng thời, TPDN phát hành riêng lẻ cần được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán và đăng ký tại VSD để có thể cung cấp đầy đủ thông tin thiết yếu cho nhà đầu tư.
Về cơ cấu nhà đầu tư, ngoài các nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp như các NHTM, CTCK, quỹ đầu tư trái phiếu, luật BHXH điều chỉnh cho phép quỹ BHXH được đầu tư vào TPDN có xếp hạng tín nhiệm cao, cho phép cty bảo hiểm, đặc biệt bảo hiểm nhân thọ với danh mục đầu tư 275 nghìn tỷ đồng (2018) tăng tỷ trọng danh mục đầu tư vào TPDN sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển quy mô của thị trường TPDN trong tương lai.