Báo cáo thị trường tiền tệ hàng tuần vừa cập nhật của Nhóm phân tích SSI Research thuộc Công ty chứng khoán SSI cho biết, trong tuần đầu tiên của tháng 11/2019, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phát hành 46 nghìn tỷ đồng tín phiếu và có 52 nghìn tỷ đồng tín phiếu đến hạn, tương đương bơm ròng 6.000 tỷ đồng vào hệ thống ngân hàng. Kênh OMO vẫn không phát sinh giao dịch mới, duy trì số dư bằng 0.
Nhu cầu gia tăng dự trữ bắt buộc vào đầu tháng khiến thanh khoản bớt dồi dào, lãi suất trên liên ngân hàng nhích tăng khoảng 30 điểm cơ bản (bps), lên mức 2,2%/năm với kỳ hạn qua đêm và 2,4%/năm với kỳ hạn 1 tuần – hiện ở vùng tương đương với lãi suất tín phiếu và cao hơn lãi suất USD trên liên ngân hàng khoảng 50bps.
Tuần qua, NHTW Thái Lan đã hạ lãi suất lần thứ 2 trong năm nay, xuống mức 1,25%/năm - mức thấp nhất kể từ 2010 để kích thích nền kinh tế và cải thiện tình trạng lạm phát thấp. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) cũng hạ lãi suất cho vay trung hạn (MLF) kỳ hạn 1 năm từ 3,3% xuống 3,25%/năm – mức không nhiều nhưng được kỳ vọng là mở đường cho cắt giảm lãi suất cơ bản (LPR) trong nhưng ngày sắp tới. Trước đó, các quốc gia Châu Á như Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippines cũng đã hạ lãi suất từ 2 đến 4 lần. Một số nước như Ấn Độ, Indonesia còn nới lỏng tài khóa thông qua chương trình giảm thuế khá mạnh để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong bối cảnh đó, NHNN Việt Nam cũng có động thái nới lỏng hơn khi gia tăng lượng tiền đồng thông qua bơm ròng trên thị trường mở và các giao dịch mua ngoại tệ. Mới đây, trong bài phát biểu tại Quốc Hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đặt mục tiêu giảm ít nhất 0,5% lãi suất cho vay trong năm 2020, nhất là đối với những lĩnh vực ưu tiên.
Tuy vậy, theo SSI Research, trong ngắn hạn từ giờ đến cuối năm, lãi suất trên thị trường 1 vẫn khó giảm do tính mùa vụ. Dù một số NHTM công bố điều chỉnh giảm nhẹ 10-20bps trên biểu lãi suất nhưng mức lãi suất thực tế không có nhiều thay đổi, mức giãn cách giữa các nhóm NHTM vẫn rất rộng. Cụ thể, lãi suất huy động phổ biến trong khoảng 4,1-5,5%/năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,3-7,8%/năm với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 6,4-8,1%/năm với kỳ hạn 12,13 tháng.