Dự thảo nêu rõ về tổ chức tín dụng mất, có nguy cơ mất khả năng chi trả như sau: Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả khi không duy trì được tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 130 của Luật Các tổ chức tín dụng và phải sử dụng ngay các biện pháp tự xử lý ở mức 20% trở lên của tài sản có tính thanh khoản cao trong thời gian 03 tháng liên tục.
Tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả khi không thực hiện nghĩa vụ chi trả khoản nợ trong thời gian 01 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán khi tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thấp hơn 4% và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn so với tổng nợ lớn hơn 5% trong thời gian 06 tháng liên tục.
Tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản thấp hơn 2% và không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời gian 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Theo dự thảo, căn cứ kết quả thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và theo đề nghị của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở chính (Ngân hàng Nhà nước chi nhánh) hoặc Ban Kiểm soát đặc biệt, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định đặt tổ chức tín dụng vào kiểm soát đặc biệt dưới hình thức giám sát đặc biệt hoặc kiểm soát toàn diện quy định.
Giám sát đặc biệt là hình thức kiểm soát đặc biệt được thực hiện thông qua việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp giám sát hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng.
Kiểm soát toàn diện là hình thức kiểm soát đặc biệt được thực hiện thông qua việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp kiểm soát trực tiếp, toàn diện hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng.
Thời hạn kiểm soát đặc biệt của TCTD do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (đối với tổ chức tín dụng không phải là quỹ tín dụng nhân dân) hoặc Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh (đối với tổ chức tín dụng là quỹ tín dụng nhân dân) quy định trong Quyết định kiểm soát đặc biệt.
Căn cứ thực trạng của tổ chức tín dụng, chậm nhất 30 ngày trước khi hết thời hạn kiểm soát đặc biệt, Ban kiểm soát đặc biệt phải có văn bản đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) quyết định gia hạn thời hạn kiểm soát đặc biệt (đối với tổ chức tín dụng không phải quỹ tín dụng nhân dân) hoặc Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh quyết định gia hạn thời hạn kiểm soát đặc biệt (đối với quỹ tín dụng nhân dân).
Tổ chức tín dụng được chấm dứt kiểm soát đặc biệt sau khi có Quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (đối với tổ chức tín dụng không phải quỹ tín dụng nhân dân) hoặc Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh (đối với quỹ tín dụng nhân dân).