Tại báo cáo "Việt Nam 2045: Nâng cao vị thế thương mại trong một thế giới đang thay đổi" của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế/Ngân hàng Thế giới (Worl Bank - WB), Việt Nam có thể trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi, và gia nhập làn sóng tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu ở lĩnh vực dịch vụ và chế tạo chế biến, đem lại giá trị cao hơn. Dựa trên cải thiện về công nghệ, kỹ năng và đổi mới sáng tạo.
Trong 5 gói chính sách được WB đưa ra, tổ chức này cho rằng cần hạ thấp rào cản chính sách phi thuế quan trong thương mại qua đẩy mạnh tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, hài hòa trong quản lý biên giới.
Theo WB, Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 và một loạt các hiệp định thương mại bao phủ 53 quốc gia, chiếm gần 90% GDP của thế giới, khoảng 85% kim ngạch nhập khẩu và 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh WTO, Việt Nam còn tham gia 19 hiệp định thương mại tự do chiếm 87% nền kinh tế thế giới và hầu hết các khu vực, trừ châu Phi và Trung Đông. Nhờ những hiệp định đó, Việt Nam giảm được thuế quan bình quân gia quyền áp cho hàng hóa chế tạo chế biến từ 16,6 xuống còn 1,1%, còn mức giảm đối với hàng sơ cấp là từ 11,2% xuống 2,7% (Chỉ số phát triển thế giới).
Trong bối cảnh chia rẽ địa kinh tế gia tăng, các hiệp định thương mại cho phép Việt Nam nổi lên trở thành quốc gia "kết nối", đem lại tác động tích cực không chỉ về thương mại mà còn về phát triển trong nước. Phân tích ở cấp độ doanh nghiệp cho thấy tương quan cùng chiều giữa mật độ xuất khẩu của các doanh nghiệp năm 2017 với kết quả tăng trưởng về doanh số, năng suất và việc làm.
Vấn đề WB đưa ra là các FTA của Việt Nam có phạm vi rộng, nhưng hầu hết lại tương đối nông, chủ yếu tập trung vào hạ thuế quan, ít cam kết về dịch vụ, về các biện pháp phi thuế quan và xử lý tranh chấp.
Cụ thể, nếu tính theo GDP và lưu lượng thương mại, Việt Nam là quốc gia thuộc nhóm cao nhất trên thế giới. Ngược lại, chiều sâu của các FTA (được tính bằng phạm vi cam kết về các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ và sức mạnh của các cơ chế giải quyết tranh chấp) còn tương đối hạn chế.
Do đó, WB cho rằng từ hạ thuế quan, Việt Nam cần chuyển sang tăng cường chiều sâu, các biện pháp hội nhập thương mại khu vực cần thiết phải được thực thi.
Theo WB, các đối tác thương mại quan trọng nhất hiện nay của Việt Nam là Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu. Tuy nhiên hội nhập khu vực và kết nối với các nền kinh tế Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á đang nổi lên trở thành nghị trình ngày càng quan trọng, đặc biệt trong điều kiện những thị trường này đang có nhu cầu tăng trưởng nhanh chóng.
Trong quá trình đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, chiến lược này cũng đồng thời giúp nâng cao khả năng chống chịu các cú sốc và giảm nguy cơ dễ tổn thương do tập trung quá nhiều vào một số đối tác thương mại. Ví dụ như Trung Quốc chiếm đến một phần tư xuất khẩu của Việt Nam, còn Hoa Kỳ chiếm 30%.
Những hiệp định với các đối tác lớn gần đây, bao gồm EU, Anh Quốc, CPTPP, và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), được cho là sẽ tiếp tục giảm chi phí thương mại liên quan đến các biện pháp phi thuế quan (NTM), trong đó các lĩnh vực nông sản thực phẩm có chi phí được cắt giảm nhiều nhất.
Mức giảm ước lên đến gần 60% tổng mức giảm chi phí thương mại đạt được trong ba thập kỷ trước. Đó là tác động nhờ giảm bất định về chính sách thương mại, tăng cường hội nhập qua hội nhập vào các chuỗi giá trị và thương mại hàng hóa trung gian, và các điều khoản hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) cụ thể nhằm vào rào cản phi thuế quan.
WB cho rằng việc hài hòa các chuẩn mực và chấp nhận lẫn nhau thông qua các hiệp định thương mại ưu đãi có thể giúp tăng cường thể chế trong nước và quá trình tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC).
Tăng cường chiều sâu các hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) vì thế sẽ hỗ trợ nâng cao vị thế cả về kinh tế cũng như trong tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu, đảm bảo khả năng chống chịu các cú sốc.
Hội nhập sâu trong khu vực và trên toàn cầu tiếp tục đem lại những lợi ích to lớn cho Việt Nam. Trên góc độ kinh tế và chiến lược, tập trung tiếp tục đẩy mạnh các hiệp định song phương và đa phương nhằm hội nhập sâu vào các thị trường chiến lược là cách để đa dạng cả các nguồn nhập khẩu và nhu cầu về hàng xuất khẩu của quốc gia.
Trong những giải pháp WB đưa ra, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường quan hệ thương mại để chuyển từ quốc gia "kết nối" thành quốc gia đầu mối thương mại.
Bên cạnh việc giảm những rào cản chính sách đối với lưu chuyển thương mại và đầu tư trong khu vực, thì khả năng kết nối số và vật lý nhằm giảm chi phí thương mại cũng là điều quan trọng cần được củng cố. Song song là những giải pháp hài hòa biên giới, giảm hạn chế về tỷ lệ sở hữu cổ phần của nước ngoài..